Thuế thu nhập cá nhân chậm sửa đổi sẽ trở thành gánh nặng khó gỡ
(ĐCSVN) - Chính sách thuế thu nhập cá nhân (TNCN) của Việt Nam đang bộc lộ nhiều bất cập lớn khi mức giảm trừ gia cảnh và biểu thuế lũy tiến không còn phù hợp với thực tế. Chờ đợi đến năm 2027 để áp dụng luật sửa đổi không chỉ gây thiệt thòi cho hàng triệu người lao động mà còn kìm hãm đà phát triển kinh tế.
Biểu thuế TNCN cần được điều chỉnh theo hướng đơn giản hóa và công bằng hơn. (Ảnh: M.P) |
Mức giảm trừ gia cảnh hiện nay, được điều chỉnh lần cuối vào năm 2020, đã không còn đáp ứng được yêu cầu thực tế. Theo quy định hiện hành, mức giảm trừ đối với người nộp thuế là 11 triệu đồng/tháng và 4,4 triệu đồng/tháng cho mỗi người phụ thuộc. Những con số này có thể được coi là hợp lý vào thời điểm năm 2020, nhưng sau 5 năm, biến động giá cả đã làm xói mòn giá trị của chúng.
Theo Tổng cục Thống kê, giá xăng đã tăng 105%, giá lương thực tăng 27%, trong khi giá dịch vụ giáo dục tăng 17%. Với mức tăng này, người lao động ở các thành phố lớn, nơi chi phí sinh hoạt luôn ở mức cao, đang phải chật vật gánh thêm áp lực tài chính. Một giáo viên tại Hà Nội chia sẻ: “Tôi có thu nhập 18 triệu đồng/tháng và một con nhỏ. Sau khi giảm trừ gia cảnh, tôi vẫn phải nộp thuế. Trong khi đó, tiền học phí, đồ dùng học tập và các chi phí sinh hoạt khác cho con đã chiếm gần hết thu nhập của tôi. Chưa kể, chi phí sinh hoạt ở Hà Nội cao hơn hẳn nhiều địa phương khác, nhưng mức giảm trừ gia cảnh thì vẫn áp dụng chung.”
Chính sách này không chỉ lạc hậu mà còn tạo ra sự bất công lớn giữa các vùng miền. Những người sống tại các đô thị lớn như Hà Nội, TP.HCM phải đối mặt với chi phí sinh hoạt cao gấp 2-3 lần các vùng nông thôn, nhưng lại chịu chung một mức giảm trừ gia cảnh. Theo TS. Nguyễn Quốc Việt, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), việc áp dụng một mức giảm trừ chung trên toàn quốc là không hợp lý. Ông nhấn mạnh: “Chính sách này cần phải được thay đổi để phản ánh sự khác biệt rõ rệt về mức sống giữa các khu vực. Một phương án khả thi là phân loại mức giảm trừ theo vùng miền hoặc cho phép giảm trừ dựa trên các chi phí thực tế như học phí, viện phí, nhằm đảm bảo công bằng hơn cho người nộp thuế.”
Ngoài ra, cơ chế điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh hiện nay cũng gây nhiều bất cập. Theo luật hiện hành, mức giảm trừ chỉ được điều chỉnh khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng trên 20% so với lần điều chỉnh gần nhất. Quy định này khiến chính sách thuế trở nên cứng nhắc và không phản ánh kịp thời biến động của nền kinh tế. Các chuyên gia cho rằng, với mức tăng CPI từ 5-10%, người lao động đã cảm nhận rõ rệt sự suy giảm sức mua. Ông Nguyễn Văn Được, Ủy viên Ban chấp hành Hội Tư vấn Thuế Việt Nam, đề xuất: “Chính phủ nên được phép điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh linh hoạt hơn, thay vì chờ đợi CPI tăng đến 20%. Điều này sẽ giúp chính sách thuế nhạy bén hơn với thực tế và giảm áp lực tài chính cho người dân trong thời gian ngắn.”
Không chỉ dừng lại ở mức giảm trừ gia cảnh, biểu thuế lũy tiến từng phần hiện hành cũng gây ra nhiều tranh cãi. Với 7 bậc thuế, từ 5% đến 35%, biểu thuế này được đánh giá là không còn phù hợp khi khoảng cách giữa các bậc thuế quá gần nhau, dễ đẩy người lao động có thu nhập trung bình lên các bậc thuế cao hơn. Điều này không chỉ làm tăng gánh nặng thuế mà còn tạo tâm lý bất công trong xã hội.
Lấy ví dụ, một người lao động có thu nhập 20 triệu đồng/tháng sau giảm trừ gia cảnh sẽ phải chịu thuế suất 15%. Nhưng chỉ cần thu nhập tăng thêm vài triệu đồng, họ sẽ bị đẩy lên bậc thuế 20%, dẫn đến việc nộp thuế cao hơn đáng kể. TS. Nguyễn Quốc Việt nhận xét: “Biểu thuế hiện tại không tạo động lực cho người lao động nâng cao năng suất hay tích lũy. Ngược lại, nó làm giảm thu nhập thực tế và khiến người dân e ngại việc tăng thu nhập vì phải đối mặt với mức thuế cao hơn.”
Mức thuế suất cao nhất 35% cũng là một điểm gây tranh cãi lớn. So với thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) hiện nay, chỉ ở mức 20%, thuế suất TNCN cao nhất gần như gấp đôi. Ông Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI, thẳng thắn chỉ ra: “Không có lý do gì để thuế TNCN cao hơn thuế TNDN. Điều này không chỉ làm giảm tính cạnh tranh của Việt Nam trong việc thu hút lao động chất lượng cao mà còn tạo cảm giác bất công giữa các tầng lớp lao động.”
Các chuyên gia đều thống nhất rằng, biểu thuế TNCN cần được điều chỉnh theo hướng đơn giản hóa và công bằng hơn. Giảm số bậc thuế từ 7 xuống 4-5 bậc, giãn cách khoảng thu nhập giữa các bậc và hạ mức thuế suất cao nhất xuống 20-25% là những giải pháp khả thi. Việc này không chỉ giúp giảm áp lực kê khai và nộp thuế cho người dân mà còn tạo động lực làm việc và tiết kiệm, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Bên cạnh đó, các chuyên gia cũng cảnh báo về những hệ lụy kinh tế nếu Luật Thuế TNCN không được sửa đổi kịp thời. Chính sách thuế hiện tại đang làm suy giảm sức mua của người dân, gián tiếp ảnh hưởng đến tiêu dùng nội địa, vốn là một động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế. TS. Nguyễn Quốc Việt cảnh báo: “Việc người dân phải ‘thắt lưng buộc bụng’ để đóng thuế không chỉ ảnh hưởng đến đời sống cá nhân mà còn làm giảm doanh thu của doanh nghiệp, kéo lùi đà phục hồi kinh tế.”
Ngoài ra, mức thuế suất cao nhất 35% có nguy cơ đẩy các chuyên gia, lao động trình độ cao ra khỏi Việt Nam, khi họ tìm kiếm các quốc gia có chính sách thuế ưu đãi hơn. Điều này sẽ làm suy yếu khả năng cạnh tranh của Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Ở các quốc gia phát triển, chính sách thuế TNCN thường được thiết kế linh hoạt và công bằng hơn. Chẳng hạn, Singapore áp dụng mức thuế suất tối đa 22%, Malaysia 30%, nhưng chỉ với những người có thu nhập rất cao. Ngoài ra, nhiều nước còn cho phép khấu trừ thuế dựa trên các chi phí thực tế như học phí, viện phí hoặc bảo hiểm y tế. Đây là những kinh nghiệm quý báu mà Việt Nam có thể học hỏi để cải cách chính sách thuế TNCN một cách hiệu quả hơn.
Việc sửa đổi Luật Thuế TNCN không chỉ là một yêu cầu cấp bách, mà còn là cơ hội để Chính phủ thể hiện sự đồng hành cùng người dân và doanh nghiệp. Những thay đổi cần thiết bao gồm nâng mức giảm trừ gia cảnh, điều chỉnh biểu thuế lũy tiến, giảm thuế suất và cải thiện cơ chế điều chỉnh. Những biện pháp này không chỉ giúp giảm gánh nặng thuế mà còn thúc đẩy tiêu dùng, tạo động lực làm việc và góp phần xây dựng một nền kinh tế bền vững hơn.
Trong bối cảnh nền kinh tế đang nỗ lực phục hồi sau đại dịch, việc cải cách chính sách thuế TNCN không thể chỉ dừng lại ở việc điều chỉnh vài con số. Đây phải là một cuộc cải cách toàn diện, hướng tới xây dựng một hệ thống thuế công bằng, linh hoạt và phù hợp hơn với bối cảnh kinh tế - xã hội. Chỉ khi đó, chính sách thuế mới thực sự trở thành công cụ hỗ trợ phát triển kinh tế, thay vì là gánh nặng kéo lùi người dân và doanh nghiệp./..