Quốc hội thông qua danh sách 48 người được lấy phiếu tín nhiệm
(ĐCSVN) - Việc lấy phiếu tín nhiệm là nội dung giám sát đặc biệt quan trọng, thể hiện sự ghi nhận, đánh giá của Quốc hội đối với những nỗ lực, cố gắng và kết quả đạt được từ đầu nhiệm kỳ đến nay của những người được lấy phiếu tín nhiệm.
Quốc hội làm việc tại Hội trường thông qua danh sách lấy phiếu tín nhiệm (Ảnh: MH)
Căn cứ vào Điều 12 Luật Tổ chức Quốc hội và Điều 18 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND, Quốc hội sẽ lấy phiếu tín nhiệm đối với 50 người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
Tuy nhiên, trong số những người giữ các chức vụ thuộc diện Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm lần này có hai chức danh vừa được Quốc hội bầu và phê chuẩn là Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng. Theo quy định tại khoản 6 Điều 1 Nghị quyết số 85/2014/QH13: “Quốc hội không lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn có thời gian đảm nhiệm chức vụ liên tục chưa đủ chín tháng, tính đến ngày khai mạc kỳ họp tổ chức lấy phiếu tín nhiệm của Quốc hội”. Do vậy, sẽ có 48 người được lấy phiếu tín nhiệm tại kỳ họp thứ sáu, Quốc hội khóa XIV.
Việc lấy phiếu tín nhiệm nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước; giúp người được lấy phiếu tín nhiệm tín nhiệm thấy được mức độ tín nhiệm của mình để phấn đấu, rèn luyện, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động; làm cơ sở để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét đánh giá cán bộ.
Các đại biểu Quốc hội sẽ căn cứ vào quá trình công tác, mức độ hoàn thành nhiệm vụ từ đầu nhiệm kỳ đến nay; báo cáo tự đánh giá về việc thực hiện nhiệm vụ của những người thuộc diện được lấy phiếu tín nhiệm… để đánh giá.
Theo Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, việc lấy phiếu tín nhiệm là nội dung giám sát đặc biệt quan trọng, thể hiện sự ghi nhận, đánh giá của Quốc hội đối với những nỗ lực, cố gắng và kết quả đạt được từ đầu nhiệm kỳ đến nay của những người được lấy phiếu tín nhiệm. Trên cơ sở lắng nghe ý kiến của cử tri, từ thực tiễn theo dõi, giám sát của mình, mỗi đại biểu Quốc hội sẽ thực hiện việc đánh giá với tinh thần trách nhiệm, bảo đảm dân chủ, khách quan, công tâm.
* Trước đó, đầu giờ chiều, Quốc hội thảo luận ở tổ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung các Luật có quy định liên quan đến quy hoạch.
Việc ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến Luật Quy hoạch để đồng bộ với Luật Quy hoạch là cần thiết, tránh tạo ra các khoảng trống pháp lý, các xung đột, vướng mắc trong công tác lập, thẩm định, phê duyệt và thực hiện các quy hoạch, góp phần đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong đầu tư, kinh doanh.
Việc xây dựng dự án Luật nhằm tiếp tục thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng tại Nghị quyết số 10-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và Nghị quyết số 11-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, bãi bỏ các quy hoạch về phát triển hàng hóa, dịch vụ, sản phẩm cụ thể; đảm bảo thống nhất với các nguyên tắc sửa đổi luật đã được áp dụng trong quá trình xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung 11 luật có liên quan đến quy hoạch đồng thời đảm bảo các mục tiêu, yêu cầu về quản lý nhà nước của các ngành trong phát triển kinh tế-xã hội.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung các Luật có quy định liên quan đến quy hoạch bao gồm 32 điều, trong đó có 31 điều quy định việc sửa đổi các luật và 1 điều về quy định hiệu lực thi hành luật.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung những nội dung liên quan đến cấp, loại quy hoạch, thẩm quyền lập, thẩm định, phê duyệt, công bố và điều chỉnh quy hoạch, nội dung quy hoạch và các nội dung kỹ thuật đơn giản khác.
Nhiều ý kiến cho rằng nội dung và thẩm quyền về lập, thẩm định, phê duyệt Quy hoạch sử dụng đất quốc gia, Quy hoạch sử dụng đất quốc phòng, Quy hoạch sử dụng đất an ninh đã được quy định tại Luật Quy hoạch và giao Chính phủ quy định chi tiết. Tuy nhiên, dự thảo Luật lại quy định thêm các nội dung khác phải có trong quy hoạch này. Việc quy định như trên là không phù hợp, vì cùng một nội dung quản lý nhà nước nhưng lại được quy định ở nhiều văn bản khác nhau, gây phức tạp trong áp dụng pháp luật.
Ủy ban Kinh tế đề nghị cơ quan soạn thảo chỉnh lý dự thảo Luật theo hướng Quy hoạch sử dụng đất quốc gia, Quy hoạch sử dụng đất quốc phòng và Quy hoạch sử dụng đất an ninh thực hiện theo Luật Quy hoạch.
Ngoài ra, Ủy ban Kinh tế đề nghị bổ sung, sửa đổi các nội dung liên quan đến giấy phép quy hoạch, điều chỉnh cục bộ quy hoạch để bảo đảm đồng bộ với nguyên tắc chung của hoạt động quy hoạch. Cơ quan soạn thảo phối hợp với các bộ, ngành liên quan tiếp tục rà soát bảo đảm tính hệ thống của các quy định về quy hoạch cũng như sự thống nhất nội tại của các luật được sửa đổi, bổ sung...
Về điều chỉnh quy hoạch, một số đại biểu cho rằng Luật Xây dựng và Luật Quy hoạch đô thị quy định hình thức điều chỉnh cục bộ với thủ tục rút gọn, đơn giản, tuy nhiên chỉ quy định chung chung là “không ảnh hưởng lớn”, điều này có thể dẫn tới việc lạm dụng, điều chỉnh tùy tiện. Do vậy, Luật cần quy định rõ trường hợp áp dụng hình thức điều chỉnh tổng thể, hình thức điều chỉnh cục bộ tại hai luật này để bảo đảm đồng bộ với nguyên tắc chung của hoạt động quy hoạch đã được quy định tại Luật Quy hoạch, tránh tình trạng lợi dụng kẽ hở chính sách tạo lợi ích nhóm.
Một số ý kiến cũng đề nghị bỏ quy định về giấy phép quy hoạch và chứng chỉ quy hoạch vì Luật Quy hoạch đã quy định nguyên tắc công khai trong hoạt động quy hoạch. Tuy nhiên, theo Luật Xây dựng và Luật Quy hoạch đô thị thì khi chủ đầu tư lập quy hoạch chi tiết phải xin cấp giấy phép quy hoạch hoặc khi cần thông tin về quy hoạch phải xin chứng chỉ quy hoạch, trong khi việc lập quy hoạch là trách nhiệm của cơ quan nhà nước và thông tin quy hoạch cần phải được công khai cho doanh nghiệp và người dân.
Đa số ý kiến đại biểu Quốc hội cho rằng Luật Quy hoạch có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2019 nên việc khẩn trương chỉnh sửa các luật khác cho phù hợp với Luật Quy hoạch là rất cần thiết và cũng mang tính cấp bách để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Danh sách 48 người được lấy phiếu tín nhiệm Khối Chủ tịch nước: Bà Đặng Thị Ngọc Thịnh, Phó Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Khối Quốc hội gồm 18 người: 1. Bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2. Bà Tòng Thị Phóng, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 3. Ông Uông Chu Lưu, Phó Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 4. Ông Đỗ Bá Tỵ, Phó Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 5. Ông Phùng Quốc Hiển, Phó Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 6. Bà Nguyễn Thúy Anh, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội. 7. Ông Phan Thanh Bình, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội. 8. Ông Hà Ngọc Chiến, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội. 9. Ông Phan Xuân Dũng, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội. 10. Ông Nguyễn Khắc Định, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội. 11. Ông Nguyễn Văn Giàu, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội. 12. Ông Nguyễn Đức Hải, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội. 13. Bà Nguyễn Thanh Hải, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Trưởng ban Dân nguyện thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội. 14. Bà Lê Thị Nga, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội. 15. Ông Nguyễn Hạnh Phúc, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc hội - Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội. 16. Ông Vũ Hồng Thanh, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội. 17. Ông Trần Văn Túy, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Trưởng ban Công tác đại biểu thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội. 18. Ông Võ Trọng Việt, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội. Khối Chính phủ gồm 26 người: 1. Ông Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2. Ông Trương Hòa Bình, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 3. Ông Phạm Bình Minh, Phó Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. 4. Ông Vương Đình Huệ, Phó Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 5. Ông Vũ Đức Đam, Phó Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 6. Ông Trịnh Đình Dũng, Phó Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 7. Ông Ngô Xuân Lịch, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. 8. Ông Tô Lâm, Bộ trưởng Bộ Công an. 9. Ông Chu Ngọc Anh, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ. 10. Ông Trần Tuấn Anh, Bộ trưởng Bộ Công Thương. 11. Ông Đỗ Văn Chiến, Bộ trưởng - Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc. 12. Ông Nguyễn Xuân Cường, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 13. Ông Đào Ngọc Dung, Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. 14. Ông Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 15. Ông Đinh Tiến Dũng, Bộ trưởng Bộ Tài chính. 16. Ông Mai Tiến Dũng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ. 17. Ông Phạm Hồng Hà, Bộ trưởng Bộ Xây dựng. 18. Ông Trần Hồng Hà, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường. 19. Ông Lê Minh Hưng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 20. Ông Lê Minh Khái, Tổng Thanh tra Chính phủ. 21. Ông Lê Thành Long, Bộ trưởng Bộ Tư pháp. 22. Ông Phùng Xuân Nhạ, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. 23. Ông Lê Vĩnh Tân, Bộ trưởng Bộ Nội vụ. 24. Ông Nguyễn Văn Thể, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải. 25. Ông Nguyễn Ngọc Thiện, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. 26. Bà Nguyễn Thị Kim Tiến, Bộ trưởng Bộ Y tế. Khối Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao và Kiểm toán nhà nước có 3 người: 1. Ông Nguyễn Hòa Bình, Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao. 2. Ông Lê Minh Trí, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao. 3. Ông Hồ Đức Phớc, Tổng Kiểm toán Nhà nước. |