Điều chỉnh thuế “hạ nhiệt” thị trường thép
(ĐCSVN) - Bộ Tài chính đã đề xuất giảm 5-10% thuế nhập khẩu một số sản phẩm thép xây dựng, góp phần hạ giá mặt bằng thép xây dựng. Đồng thời, tăng thuế suất xuất khẩu phôi thép lên 5% nhằm ổn định nguồn cung phôi thép cho thị trường trong nước...
Ảnh minh họa. (Ảnh: M.P) |
Sau chuỗi ngày tăng liên tiếp, giá thép xây dựng đã dần “hạ nhiệt”. Tuy nhiên, những tháng cuối năm là thời kỳ cao điểm của mùa xây dựng, giá thép có thể tăng trở lại bất cứ lúc nào. Đó là chưa kể đến nguyên nhiên liệu, thiết bị dự phòng đều phải nhập khẩu nên ảnh hưởng từ bên ngoài rất lớn...
Nhận định về xu hướng giảm giá thép trong những ngày gần đây, Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) cho rằng đây chỉ là mức giảm tạm thời. Thực tế giá thép vẫn đang ở mức khá cao, bởi thời điểm này đang bước vào mùa mưa, các công trình sẽ giảm thi công khiến giá giảm theo cung cầu. Khi bước vào những tháng cuối năm là cao điểm mùa xây dựng, giá thép có thể sẽ tiếp tục tăng trở lại.
Trong kiến nghị gửi lên Chính phủ xem xét việc giảm thuế nhập khẩu một số nguyên liệu đầu vào của ngành thép, Bộ Công thương cũng thừa nhận nguồn nguyên liệu sản xuất đầu vào của sản phẩm thép hiện nay đa phần phải nhập khẩu, như quặng sắt, thép phế liệu, than mỡ luyện cốc, điện cực graphite... phụ thuộc rất lớn vào giá nguyên liệu thế giới.
Thời gian gần đây, giá các nguyên vật liệu sản xuất thép tăng cao đột biến trên thị trường toàn cầu, cùng với dịch bệnh, thời gian giao hàng kéo dài cũng là những lý do khiến giá thép tăng mạnh. Dự kiến trong năm 2021, Việt Nam sẽ tiếp tục phải nhập khẩu nhiều loại nguyên liệu để sản xuất thép như quặng sắt cho các lò cao khoảng hơn 18 triệu tấn, thép phế liệu khoảng 6 - 6,5 triệu tấn cho các lò điện, than mỡ luyện cốc khoảng 6,5 triệu tấn và điện cực graphite khoảng 10.000 tấn... Với dự báo giá quặng sắt, thép phế liệu, quặng nguyên liệu thô và than mỡ luyện cốc... vẫn duy trì ở mức cao sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp sản xuất thép và thị trường thép trong nước.
Trong khi đó, năng lực sản xuất phôi thép của Việt Nam hiện nay đạt khoảng 24 triệu tấn/năm và năng lực sản xuất của các nhà máy thép trong nước về cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu thép xây dựng thông thường. Theo số liệu từ VSA, trong 5 tháng đầu năm 2021 sản xuất và tiêu thụ thép các loại đều tăng khá mạnh so cùng kỳ. Trong tháng 5/2021, sản xuất thép các loại đạt 2.919.296 tấn, tăng 3,53% so tháng trước và tăng 40% so cùng kỳ 2020. Tính chung 5 tháng đầu năm, sản xuất thép các loại đạt 13.403.210 tấn, tăng 38,7% so cùng kỳ 2020. Về tiêu thụ, trong tháng 5/2021 đạt 2.475.826 tấn, giảm 8,42% so tháng 4/2021, nhưng tăng 30,8% so cùng kỳ 2020, trong đó, xuất khẩu thép các loại đạt 630.551 tấn, tăng 18,04% so tháng trước, và tăng 2,4 lần so cùng kỳ tháng 5/2020.
Lũy kế từ đầu năm đến hết tháng 5/2021, tiêu thụ thép đạt 11.959.581 tấn, tăng 38,2% so cùng kỳ 2020; trong đó, xuất khẩu thép các loại đạt 2.799.252 tấn, tăng 80% so 5 tháng năm 2020.
Bày tỏ sự lo ngại về những tác động tiêu cực do sự bất ổn từ giá nguyên liệu đầu vào mà Việt Nam buộc phải nhập khẩu, Bộ Tài chính nhận định: “Giá thép xây dựng trong nước liên tục tăng mạnh, chủ yếu do tăng giá nguyên liệu sản xuất thép và ngành thép phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên liệu từ bên ngoài. Việc giá thép tăng cao đã ảnh hưởng lớn đến tiến độ và giải ngân cũng như chi phí dự phòng của các dự án, đặc biệt các dự án đầu tư công, ảnh hưởng đến chi phí đầu vào của nhiều ngành sản xuất, ảnh hưởng đến công tác quản lý thu chi, dự toán, dự phòng và cân đối ngân sách chung”.
Theo đó, để góp phần hạ giá mặt bằng thép xây dựng, thúc đẩy các doanh nghiệp giảm chi phí, đặc biệt trong bối cảnh giá nguyên liệu tăng cao, Bộ Tài chính trình Chính phủ phương án điều chỉnh mức thuế suất thuế xuất khẩu đối với mặt hàng phôi thép và mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN của một số loại sắt thép.
Với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về chính sách thuế và điều hành giá cả trong nước, Bộ Tài chính đã nhanh chóng hoàn thiện và công bố lấy ý kiến dự thảo nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 57/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 122/2016/NĐ-CP của Chính phủ về Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, Danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan và Nghị định số 125/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 122/2016/NĐ-CP.
Bộ Tài chính giải thích, hiện Nghị định số 57/2020/NĐ-CP quy định mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN của một số mặt hàng thép xây dựng ở mức 15%, 20% và 25%. Mức thuế suất này được áp dụng để thúc đẩy ngành thép trong nước phát triển trong giai đoạn đầu. Tuy nhiên, mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN đối với một số loại sắt thép xây dựng đã được áp dụng trong một thời gian dài, với mức tương đối cao. Trong thời gian qua, với nhiều chính sách phù hợp, trong đó, có chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, ngành thép trong nước đã duy trì tốc độ tăng trưởng khá. Từ đó, từng bước tự chủ được công nghệ và năng lực sản xuất phôi thép, thép xây dựng, đáp ứng nhu cầu sử dụng trong nước và xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài.
Để góp phần giảm giá thép nguyên liệu đầu vào, Bộ Tài chính trình Chính phủ giảm mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN đối với một số mặt hàng thép như sau: Điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN đối với thép cốt bê tông từ 20% xuống 15%; đối với thép góc, khuôn, hình và thép có răng khía từ 15% xuống 10%.
Mặt khác, Nghị định số 57/2020/NĐ-CP quy định thuế nhập khẩu 0% hoặc thấp đối với nguyên liệu (quặng, thép phế liệu) để khuyến khích nhập khẩu các mặt hàng này cho sản xuất trong nước, hay duy trì mức thuế suất cao hơn đối với bán thành phẩm (phôi thép), thép thành phẩm, khuyến khích sản xuất phôi, thép thành phẩm trong nước. Cụ thể, điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN đối với nhóm sắt thép không hợp kim cán phẳng thuộc tám mã hàng từ mức 20% và 25% xuống 15%.
Theo Bộ Tài chính, việc giảm mức thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng nêu trên tuy có một số ảnh hưởng làm giảm thu ngân sách nhà nước nhưng mức ảnh hưởng dự báo không lớn do nhu cầu nhập khẩu các loại sắt thép này hiện nay là không cao. Đây là những loại thép mà trong nước cũng đã sản xuất được và cơ bản đáp ứng được nhu cầu.
Việc điều chỉnh này sẽ góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước đầu tư, đổi mới công nghệ để giảm giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh đối với các sản phẩm thép nhập khẩu; qua đó góp phần bình ổn thị trường trong nước, đồng thời, thúc đẩy ngành thép phát triển bền vững.
Về thuế xuất khẩu phôi thép, Bộ Tài chính trình Chính phủ điều chỉnh tăng thuế suất thuế xuất khẩu mặt hàng phôi thép từ 0% lên 5%. Thực hiện theo phương án này sẽ góp phần ổn định nguồn cung phôi thép cho thị trường trong nước, bình ổn giá trên thị trường và hạn chế được việc xuất khẩu phôi thép giữ cho sản xuất trong nước, đảm bảo sự phát triến bền vững của ngành thép trong dài hạn.
Thiết nghĩ, về lâu dài, biện pháp khả thi nhất để bình ổn thị trường thép là Chính phủ cần có chính sách phù hợp để khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất thép tự chủ nguồn nguyên liệu, giảm bớt phụ thuộc vào nhập khẩu qua đó hạn chế sự tăng giá thép không kiểm soát. Song để tạm thời ổn định giá thép trong nước, hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu cực từ sự bất ổn giá thép, phôi thép trên thị trường quốc tế, biện pháp can thiệp bằng chính sách thuế là giải pháp khả thi./.