Đẩy mạnh tuyên truyền phát triển kinh tế xanh trong bối cảnh hội nhập và phát triển bền vững
(ĐCSVN) - Để thúc đẩy tăng trưởng xanh, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản, chương trình, kế hoạch hành động, trong đó có đề ra quan điểm về tăng trưởng xanh. Năm 2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1393/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050. Đây là chiến lược quốc gia đầu tiên, toàn diện về lĩnh vực phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam.
Quan điểm về tăng trưởng xanh ở Việt Nam gồm 5 nội dung, đó là: 1) Tăng trưởng xanh là một nội dung quan trọng của phát triển bền vững, đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững và góp phần quan trọng thực hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu; 2) Tăng trưởng xanh phải do con người và vì con người, góp phần tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân; 3) Tăng trưởng xanh dựa trên tăng cường đầu tư và bảo tồn, phát triển và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn tự nhiên, giảm phát thải nhà kính, cải thiện nâng cao chất lượng môi trường, qua đó kích thích tăng trưởng kinh tế; 4) Tăng trưởng xanh phải dựa trên cơ sở khoa học và công nghệ hiện đại, phù hợp với điều kiện Việt Nam; 5) Tăng trưởng xanh là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, các cấp chính quyền, các Bộ, ngành, địa phương, các doanh nghiệp và tổ chức xã hội.
Với 5 quan điểm về tăng trưởng xanh như trên, Chính phủ đặt ra mục tiêu chung là tăng trưởng xanh, tiến tới nền kinh tế các-bon thấp, làm giàu vốn tự nhiên trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế bền vững; giảm phát thải và tăng khả năng hấp thụ khí nhà kính dần trở thành chỉ tiêu bắt buộc và quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, đề ra 3 nhiệm vụ chiến lược, gồm: 1) Giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; 2) Xanh hóa sản xuất; 3) Xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững.
Chính phủ cũng đề ra 17 giải pháp để thực hiện Chiến lược. Trong đó, giải pháp đầu tiên Chính phủ yêu cầu thực hiện là: Tuyên truyền, nâng cao nhận thức, khuyến khích hỗ trợ thực hiện. Với giải pháp đầu tiên này, cần tập trung tổ chức tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của nhân dân, cộng đồng về vai trò, ý nghĩa của tăng trưởng xanh, những hành động thiết thực đóng góp vào thực hiện tăng trưởng xanh.
Việt Nam xác định: Hiện đại hóa nền kinh tế; thịnh vượng về kinh tế đi đôi với bền vững về môi trường. |
Trong quá trình phát triển, nhận thức về phát triển xanh của Đảng và Nhà nước ngày càng sáng tỏ và thể hiện quyết tâm cao. Tại Đại hội lần thứ XII của Đảng đã xác định một trong những hướng đi đó là phát triển kinh tế xanh. Đến Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định, tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khoẻ nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường.
Cụ thể hoá quan điểm của Đảng về tăng trưởng xanh, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1658/QĐ-TTg, ngày 1 tháng 10 năm 2021 phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050. Quyết định này đã nêu 6 quan điểm về tăng trưởng xanh: 1) Tăng trưởng xanh góp phần thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng chống chị trước các cú sốc từ bên ngoài, hiện thực hoá Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2030, hệ thống quy hoạch quốc gia, chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực; 2) Tăng trưởng xanh là một phương thức quan trọng để thực hiện phát triển bền vững, đóng góp trực tiếp vào giảm phát thải khí nhà kính để hướng tới nền kinh tế trung hoà các-bon trong dài hạn; 3) Tăng trưởng xanh lấy con người làm trung tâm, giúp giảm thiểu tính dễ bị tổn thương của con người trước biến đổi khí hậu; khuyến khích lối sống có trách nhiệm của từng cá nhân đối với cộng đồng và xã hội, định hướng thế hệ tương lai về văn hoá sống xanh, hình thành xã hội văn minh, hiện đại hài hoà với thiên nhiên và môi trường; 4) Tăng trưởng xanh phải dựa vào thể chế và quản trị hiện đại, khoa học và công nghệ tiên tiến, nguồn nhân lực chất lượng cao, phù hợp với bối cảnh quốc tế và điều kiện trong nước; 5) Tăng trưởng xanh định hướng đầu tư vào công nghệ tiên tiến, chuyển đổi số, kết cấu hạ tầng thông minh và bền vững; tạo động lực để đầu tư tư nhân đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế xanh; 6) Tăng trưởng xanh là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị, toàn dân, cộng đồng doanh nghiệp và các cơ quan, tổ chức liên quan, được thúc đẩy bằng tinh thần đổi mới sáng tạo và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, bền vững.
Quyết định 1658 cũng đề ra mục tiêu tổng quát là tăng trưởng xanh góp phần thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nhằm đạt được thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội; hướng tới nền kinh tế xanh, trung hoà các-bon và đóng góp vào mục tiêu hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu.
Quyết định cũng yêu cầu cần tiếp tục tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vai trò, ý nghĩa của tăng trưởng xanh. Phổ biến các thực hành tốt và hành động thiết thực về lối sống, tiêu dùng xanh, hài hoà với thiên nhiên, gắn kết với các giá trị truyền thống. Chú trọng giáo dục về kỹ năng mềm, tăng cường phối hợp giữa nhà trường với gia đình và xã hội để hình thành phong cách, ý thức sống xanh, văn minh, cống hiến và sáng tạo. Nâng cao năng lực nhận diện nhãn năng lượng, nhãn sinh thái, nhãn xanh đối với hàng hoá, sản phẩm; tăng cường phổ biến thông tin sản phẩm, dịch vụ phát thải thấp, thân thiện môi trường.
Thực tiễn cho thấy, sau 38 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Từ một nước nghèo, bị chiến tranh tàn phá nặng nề và kế hoạch hóa tập trung bao cấp, khép kín, Việt Nam đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình và nền kinh tế thị trường năng động, hội nhập mạnh mẽ, sâu rộng vào hệ thống kinh tế toàn cầu.
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam khá cao, liên tục, ổn định và bao trùm, bảo đảm mọi người dân được hưởng lợi từ quá trình phát triển. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng được thúc đẩy, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được đảm bảo.
Theo Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) giai đoạn 2016 - 2019 đạt khá cao, ở mức bình quân 6,8%/năm. Mặc dù năm 2020 kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19, thiên tai, bão lụt nghiêm trọng ở miền Trung nhưng tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm 2016 - 2020 đạt khoảng 6%/năm và thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới. Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020 được triển khai mạnh mẽ, và đạt nhiều thành tựu tích cực. Tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều của cả nước đã giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống dưới 3% vào năm 2020, bình quân giai đoạn 2016 - 2020 giảm trên 1,4%/năm. Đời sống người dân không ngừng được cải thiện; tạo sinh kế và nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
Tuy còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng nền kinh tế Việt Nam năm 2023 vẫn đạt nhiều kết quả tích cực. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, GDP năm 2023 ước tính tăng 5,05% so với năm 2022, cao hơn tốc độ tăng 2,87% và 2,55% của các năm 2020 và 2021. Tỷ lệ nghèo đa chiều năm 2023 cũng đạt nhiều kết quả tích cực. Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, về số hộ nghèo, tính chung cả nước có tỷ lệ hộ nghèo là 2,93% (giảm 1,1% so với cuối năm 2022); tổng số hộ nghèo là 815.101 hộ.
Về cơ bản, thành công của 38 năm đổi mới cũng đặt ra nhiều kỳ vọng và trách nhiệm lớn hơn, nặng nề hơn đối với tương lai. Mục tiêu của Việt Nam được khẳng định trong Hiến pháp là “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Xuất phát từ tình hình thế giới, khu vực và trong nước, với khát vọng mạnh mẽ, mục tiêu được xác định trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng: đến năm 2025, là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, có thu nhập cao.
Với tinh thần đó, một trong những chuyển đổi quan trọng để đạt được mục tiêu trên, Việt Nam đã xác định cần hiện đại hóa nền kinh tế; phát triển bền vững về môi trường và tăng cường khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu; đảm bảo công bằng và hòa nhập xã hội; thịnh vượng về kinh tế đi đôi với bền vững về môi trường…
Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, phát triển kinh tế xanh là một xu thế tất yếu. Để thực hiện kinh tế xanh, một trong những công cụ quan trọng của họ là đẩy mạnh công tác truyền thông theo hướng động lực mới của nền kinh tế xanh là bảo vệ môi trường, phát triển công nghệ sản xuất sạch và năng lượng sạch nhằm nhanh chóng đạt được mức tăng trưởng kinh tế bền vững. Chẳng hạn như ở Mỹ - một trong những nước đi đầu về thực hiện chính sách kinh tế xanh, họ đã thực hiện các chính sách mới nhằm chấn hưng nền kinh tế như phát triển năng lượng, phát triển kinh tế xanh, thực hiện chính sách tiết kiệm năng lượng, giảm bớt ô nhiễm môi trường và thực hiện chính sách tái tạo năng lượng. Họ đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền để thực hiện chiến lược tiết kiệm năng lượng với mục tiêu đến năm 2025, các nguồn năng lượng tái tạo sẽ chiếm khoảng 25% lượng phát điện. Hoặc như ở Liên minh châu Âu, năm 2021, khoảng 22% năng lượng sử dụng tại EU có được từ các nguồn tái tạo. Năm 2023, họ cũng đã đạt được thỏa thuận chính trị đặt ra những mục tiêu để mở rộng sử dụng năng lượng tái tạo đến năm 2030. Các nước EU và Nghị viện châu Âu (EP) đã nhất trí đến năm 2030, khối này sẽ đạt mục tiêu 42,5% năng lượng từ các nguồn tái tạo như gió và mặt trời (thay thế cho mục tiêu trước đó là đến năm 2030 sẽ có 32% năng lượng sử dụng từ các nguồn tái tạo). Nhiều nước ở châu Á cũng xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xanh. Hàn Quốc cũng đặt ra mục tiêu trở thành 1 trong 5 cường quốc kinh tế xanh của thế giới vào năm 2050.
Ở Việt Nam, do nhiều nguyên nhân, cả chủ quan và khách quan, để nền kinh tế phát triển theo chiều rộng là chủ yếu, sử dụng nhiều yếu tố đầu vào cho quá trình phát triển. Điều này phần nào đã tác động đến hoạt động truyền thông. Công tác truyền thông chưa thực sự chú ý nhiều đến việc tuyên truyền phát triển kinh tế theo chiều sâu, phát triển kinh tế cần gắn chặt với bảo vệ môi trường và xã hội. Trong tình hình mới, việc chuyển đổi phương thức phát triển, hướng tới phát triển kinh tế xanh là hướng tiếp cận mới. Do vậy, để tạo sự đồng thuận trong toàn xã hội nhận thức rõ về kinh tế xanh, một trong những biện pháp quan trọng là cần đẩy mạnh hoạt động truyền thông về phát triển kinh tế xanh.
Nhìn chung, dư luận dường như chưa hiểu rõ về bản chất của kinh tế xanh. Chẳng hạn, khi tuyên truyền về xoá đói, giảm nghèo, dường như truyền thông trong nước chủ yếu chỉ chú ý đến tiêu chí thu nhập, chứ chưa thực sự chú ý đến tiêu chí y tế; văn hoá; giáo dục;… theo cách tiếp cận giảm nghèo đa chiều. Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đã đưa ra nhận định, trong bối cảnh tài nguyên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang dần cạn kiệt, đa dạng sinh học bị suy giảm, ô nhiễm môi trường tiếp tục gia tăng, biến đổi khí hậu ngày càng rõ nét, nhiều quốc gia lựa chọn kinh tế xanh là mô hình phát triển mới để giải quyết đồng thời những vấn nạn đang tiếp diễn phức tạp. Mô hình kinh tế mới này ghi nhận giá trị và vai trò của đầu tư vào vốn tự nhiên, tạo ra việc làm, là trụ cột để giảm nghèo. Thay vì sử dụng nhiên liệu hóa thạch, nền kinh tế xanh sử dụng năng lượng tái tạo và công nghệ carbon thấp, khuyến sử dụng nguồn lực và năng lượng hiệu quả hơn.
Những thách thức đối với phát triển kinh tế xanh
Thực tiễn cho thấy, sức ép môi trường đã đe dọa tăng trưởng bền vững trong dài hạn của Việt Nam. Tăng trưởng trong nhiều năm qua phần nào có được với cái giá phải trả về môi trường khá lớn. Tài nguyên cạn kiệt nhanh chóng là vấn đề rất đáng quan ngại. Ô nhiễm môi trường từ nước thải công nghiệp và đô thị dẫn đến những nguy cơ nghiêm trọng về sức khỏe, đặc biệt đối với trẻ em tại các địa bàn quanh Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Trong tương lai, Việt Nam cũng là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất bởi biến đổi khí hậu, trong đó dân cư và hoạt động kinh tế tập trung tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long phải chịu rủi ro cao nhất (Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam là 1 trong 5 nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất của nước biển dâng). Rủi ro còn tăng lên do mức tiêu thụ năng lượng gia tăng và dựa nhiều vào nhiệt điện than.
Các vấn đề về môi trường cũng đe dọa tăng trưởng dài hạn không kém gì các thách thức về năng suất. Nếu vẫn tiếp tục theo đuổi mô hình tăng trưởng như hiện nay, đến năm 2035 các vấn đề này sẽ càng trầm trọng thêm, trong đó quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa càng làm cạn kiệt thêm tài nguyên đất, nước và năng lượng. Một bài học kinh nghiệm là chất lượng môi trường không khí và nước không chỉ quan trọng đối với các vấn đề sinh thái và chất lượng cuộc sống nói chung mà còn đối với việc nâng cao thu nhập.
Việt Nam đang đối mặt với các thách thức để phát triển như:
Cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên: Việt Nam phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên nhiều hơn hầu hết các quốc gia khác trong khu vực. Điều này thể hiện rõ nhất trong cơ cấu lao động. Khoảng 50% lực lượng lao động sống phụ thuộc vào nông nghiệp hoặc đất đai dưới các hình thức khác nhau. Chính sách phát triển nông nghiệp kém làm trầm trọng tình trạng xói mòn đất, hủy hoại rừng nguyên sinh và đa dạng sinh học, như tại khu vực Tây Bắc và miền Trung. Đất đai bị xói mòn góp phần làm tăng tần suất và mức độ nghiêm trọng của lũ lụt đối với đất nông nghiệp và dân cư phía hạ nguồn.
Phần lớn rừng phòng hộ ngập mặn bị phá hủy, theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, thiệt hại hàng năm là khoảng 34 triệu USD. Hoạt động khai thác quá mức làm cạn kiệt nguồn thủy sản ven bờ, đe dọa sinh kế của hàng trăm nghìn người dân. Sản lượng nông nghiệp đã tăng mạnh nhưng lại sử dụng đất quá nhiều cũng như lạm dụng phân bón và thuốc trừ sâu. Nếu không có quy định và kiểm soát chặt thì 20 năm tới sẽ có sự cạnh tranh khốc liệt về đất canh tác, ngày càng nhiều đất rừng bị chuyển sang mục đích nông nghiệp và vì vậy những tài nguyên quý giá đó ngày càng cạn kiệt nhanh hơn.
Suy giảm chất lượng môi trường: Chất lượng đất, nước và không khí đã xấu đi đáng kể. Ô nhiễm nước đã trở nên nghiêm trọng, nhất là tại các vùng gần Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Chất lượng không khí cũng giảm do tăng sử dụng nhiên liệu hóa thạch để phát điện, sử dụng trong công nghiệp và vận tải. Chất lượng không khí thấp là nguyên nhân làm trẻ em dưới 5 tuổi mắc các bệnh đường hô hấp với tỉ lệ cao. Do chất lượng không khí thấp, ước tính 4.000 ca tử vong sớm mỗi năm có liên quan đến nhiệt điện than. Tại các khu vực đô thị, ô nhiễm môi trường do nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp đã làm nhiễm độc các nguồn nước, tác động xấu đến hoạt động kinh tế và mặc dù chưa đánh giá đầy đủ nhưng tác động đến sức khỏe con người là khá nghiêm trọng.
Nguy cơ do biến đổi khí hậu: Biến đổi khí hậu làm trầm trọng thêm những hệ lụy do sử dụng tài nguyên thiên nhiên không bền vững và suy thoái môi trường. Việt Nam là một trong những quốc gia chịu tác động nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu do vị trí địa lí, tập trung dân cư đông ở các vùng đồng bằng thấp và nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào các ngành dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu. Chẳng hạn, theo số liệu của Cục Quản lý đê điều và phòng, chống thiên tai, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2023, nước ta đã xảy ra trên 1.100 trận thiên tai với 21/22 loại hình thiên tai, gây thiệt hại về kinh tế cho nước ta khoảng 8.236 tỷ đồng (bằng 42% so với năm 2022). Các dự báo về lượng mưa, nhiệt độ và mực nước biển cho thấy các địa bàn có mật độ cao và có tầm quan trọng về kinh tế phải đối mặt với rủi ro lớn.
Những nguy cơ từ biến đổi khí hậu cho thấy cần phải có cách tiếp cận dựa trên thông tin đầy đủ về các yếu tố dân số, kinh tế-xã hội, chính trị và sinh thái tự nhiên trong quyết định về phân bổ nguồn lực, phối hợp trong qui hoạch và sử dụng đất đai và những tài nguyên khác. Để giảm thiểu nguy cơ do biến đổi khí hậu cần phát triển theo định hướng chống chịu với khí hậu.
Tiêu thụ năng lượng ngày càng tăng: Sử dụng năng lượng tại Việt Nam tăng nhanh hơn bất kì quốc gia nào khác trong khu vực, chủ yếu là do tăng tiêu thụ điện năng. Theo xu thế và chính sách hiện nay, tỷ trọng than dùng cho phát điện sẽ tăng từ 32% năm 2014 lên đến 54% năm 2030, trong khi khoảng 60% lượng than dùng cho sản xuất điện sẽ phải nhập khẩu. Cường độ tiêu thụ năng lượng của Việt Nam cũng thuộc hàng cao nhất thế giới, một trong những nguyên nhân chính là do sử dụng năng lượng kém hiệu quả.
Thúc đẩy phát triển kinh tế xanh
Để hướng tới phát triển bền vững, Việt Nam cần có những chọn lựa đúng đắn trong quá trình phát triển. Việt Nam đang ở thời điểm mang tính quyết định, lựa chọn đúng sẽ tránh được suy thoái môi trường và phí tổn để khắc phục hậu quả môi trường như nhiều quốc gia đã phải đối mặt. Tăng trưởng cac-bon thấp đòi hỏi phải ưu tiên đầu tư tính đến phí tổn môi trường, đảm bảo phát triển bao trùm và có khả năng chống chịu, và đây chính là một sự lựa chọn bền vững và khả thi trong dài hạn.
Do vậy, phải có thể chế mạnh để giám sát và thực thi các kế hoạch, chính sách, pháp luật đối với quản lý môi trường và tài nguyên thiên nhiên bền vững. Khuyến khích đầu tư bền vững, với sự tham gia của khu vực tư nhân mang lại lợi ích cho môi trường và người nghèo. Cũng cần cải thiện việc tiếp cận và sử dụng thông tin trong quá trình ra quyết định, giám sát, đảm bảo tính công khai và trách nhiệm giải trình.
Tăng trưởng bền vững chủ yếu liên quan đến các chính sách giải quyết thất bại của thị trường và định giá đúng thông qua các hình thức ưu đãi có mục tiêu như thuế môi trường, định giá các tác động tiêu cực về môi trường như phát thải các-bon, hình thành và cho phép thương mại hóa quyền tài sản, giảm trợ cấp bất hợp lý. Để giảm bớt lực cản đối với tăng trưởng như vậy phải có thông tin minh bạch, ví dụ, về giá trị kinh tế của các dịch vụ môi trường mà tài nguyên thiên nhiên mang lại.
Việt Nam cần có sự phối hợp tốt hơn nữa với các tổ chức quốc tế; các quốc gia; các định chế tài chính quốc tế để khắc phục thất bại thị trường liên quan đến môi trường cũng như thực thi nghiêm các luật lệ và tiêu chuẩn. Đòi hỏi này rất rõ đối với đồng bằng sông Cửu Long, khu vực rất dễ bị tổn thương bởi biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn cần phải được quy hoạch và đầu tư phù hợp, hiệu quả.
Tuy nhiên, thực trạng thể chế tại khu vực này vẫn còn phức tạp, nhiều Bộ, ngành và cơ quan lập và triển khai thực hiện quy hoạch, thiếu phối hợp giữa các địa phương trong các quyết định đầu tư. Các tổ chức công cũng cần hoàn thiện chính sách nông nghiệp bền vững và tăng cường năng lực thực hiện. Hiện nay, các chính sách khuyến nông thường mâu thuẫn với các mục tiêu bảo vệ môi trường. Ví dụ, Nhà nước đang trợ cấp để nâng cao công suất chế biến thủy sản hoặc đóng tàu cá tại những địa bàn đang nỗ lực bảo tồn nguồn thủy sản.
Cần nâng cao sự phối hợp giữa Bộ Tài Nguyên và Môi trường; Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Y tế; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch; Bộ Giáo dục và Đào tạo,… để xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ là phát triển kinh tế không phải bằng mọi giá.
Đầu tư thông minh cho ứng phó với biến đổi khí hậu. Một hướng đi cần thực hiện là đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực tài nguyên, năng lượng và công nghiệp nặng. Tăng trưởng theo hướng đó cũng đòi hỏi phải xây dựng và thực hiện các tiêu chuẩn, ví dụ an toàn sinh học trong nuôi trồng thủy sản hoặc nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng.
Chính phủ cần cung cấp dịch vụ và hàng hóa công để tạo thuận lợi cho khu vực tư nhân tham gia nhiều hơn vào đầu tư xanh, hòa nhập và có khả năng chống chịu. Các sản phẩm năng lượng (nhất là điện) nếu được định giá tốt hơn sẽ giúp cải thiện hiệu suất sử dụng đồng thời thu hút thêm đầu tư tư nhân. Cần khuyến khích nhiều hơn tư nhân đầu tư vào lĩnh vực năng lượng tái tạo khác (như điện gió, điện mặt trời) hơn chỉ là vào thuỷ điện. Nhờ đó, tỷ trọng điện sản xuất bằng nguồn năng lượng tái tạo (như thuỷ điện, gió, mặt trời, và sinh khối kết hợp với khí thiên nhiên sạch) sẽ được nâng cao.
Công bố và hài hoà hoá thông tin là cơ sở để quản lý hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu ô nhiễm môi trường và suy thoái đất. Cần tăng cường dữ liệu và thông tin sử dụng cho quản lý tài nguyên thiên nhiên, làm cho thông tin dễ hiểu và dễ tiếp cận với đại bộ phận dân chúng. Việt Nam có thể đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ trong nâng cấp hệ thống thông tin có liên quan đến vấn đề môi trường. Nhưng trước tiên, hệ thống này cần cập nhật, mở rộng quy mô và hài hoà hơn nữa các nền tảng thông tin hiện có.
Khuyến khích và hỗ trợ kỹ thuật để người dân, cộng đồng triển khai và mở rộng quy mô các mô hình sản xuất và tiêu dùng tiết kiệm, an toàn, văn minh, mang đậm bản sắc dân tộc, hài hòa và thân thiện với thiên nhiên. Khuyến khích và hỗ trợ các cộng đồng phát triển mô hình đô thị sinh thái, nông thôn xanh, mô hình nhà ở xanh, mô hình phân loại rác thải tại nguồn theo phương pháp giảm thiểu - tái chế - tái sử dụng, cải thiện hiệu suất sử dụng năng lượng.
Đẩy mạnh tuyên truyền những kết quả bước đầu đạt được về phát triển kinh tế xanh theo tinh thần Quyết định số 1393/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 25/9/2012 phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050; Quyết định số 1658/QĐ-TTg, ngày 1 tháng 10 năm 2021 phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050... Các cơ quan thông tin truyền thông cần có những biện pháp để tổ chức tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của nhân dân, cộng đồng về vai trò, ý nghĩa của tăng trưởng xanh, những hành động thiết thực đóng góp vào thực hiện tăng trưởng xanh.
Đẩy mạnh tuyên truyền về kinh tế xanh
Để tiếp tục nâng cao chất lượng tuyên truyền về kinh tế xanh trong tình hình mới, trước mắt, cần đổi mới, nâng cao nâng cao tính định định hướng chính trị tư tưởng không những cho đội ngũ phóng viên, biên tập viên của bản báo, mà còn đối với đội ngũ cộng tác viên. Các tờ báo cần huy động nhiều hơn nữa các nhà hoạt động chính trị thực tiễn, nhiều nhà nghiên cứu lý luận để có nhiều bài viết giải thích sâu sắc, có sức thuyết phục những nội dung chủ yếu trong từng chỉ thị, nghị quyết của Đảng về kinh tế xanh.
Trong hoạt động tuyên truyền, báo chí cũng cần kịp thời phổ biến quá trình thể chế hoá nghị quyết, trong đó tập trung đăng tải, giải thích, hướng dẫn việc thực hiện các văn bản pháp luật của Quốc hội, các chính sách của Chính phủ, chương trình hành động của các cấp, các ngành, các địa phương triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về kinh tế xanh.
Cùng với việc gia tăng hàm lượng thông tin tuyên truyền, đa dạng hoá thể loại, báo chí cũng cần tích cực tham gia vào công tác lý luận. Do đó, báo chí cần đi sâu tham gia tổng kết thực tiễn quá trình thực hiện nghị quyết về phát triển kinh tế xanh của từng cấp, từng ngành, từng địa phương, từng lĩnh vực, từng đoàn thể. Đẩy mạnh sự phối hợp giữa cơ quan báo chí với các cơ quan chức năng, địa phương để có thể có những kiến nghị với Đảng bổ sung, hoàn thiện các chủ trương, chính sách hoặc xây dựng các chính sách mới về phát triển kinh tế xanh cho phù hợp với điều kiện mới.
Lãnh đạo biên tập cần chú trọng việc quán triệt, học tập các nghị quyết, chương trình phát triển kinh tế xanh cho cán bộ, phóng viên. Thường xuyên nâng cao trình độ nhận thức của phóng viên về kinh tế xanh. Đây là việc làm vô cùng cần thiết để bổ sung, hoàn thiện phần kiến thức nếu còn thiếu hụt của phóng viên.
Người lãnh đạo, quản lý thường được tiếp xúc với nhiều nguồn thông tin hơn, thông tin khái quát hơn, có độ tin cậy cao hơn biên tập viên, phóng viên, thông qua các cuộc giao ban, hội nghị, hội thảo, tiếp xúc với lãnh đạo cấp cao... Do vậy, định hướng thông tin của lãnh đạo có vai trò quan trọng giúp cho phóng viên, biên tập viên nắm được thông tin, hướng đưa tin, nguồn khai thác tin ở đâu… để có được thông tin nhanh, chính xác, đúng định hướng. Lãnh đạo báo giúp phóng viên đưa tin theo quan điểm tôn chỉ mục đích của tờ báo làm cho thông tin có bản sắc riêng, quan điểm riêng, tạo sự tin cậy của bạn đọc. Bằng uy tín, mối quan hệ của mình, lãnh đạo tổ chức, giới thiệu cho phóng viên tiếp xúc với nguồn tin tốt để có thông tin hay, độc đáo.
Xây dựng kế hoạch, kiểm tra kế hoạch tuyên truyền trên cơ sở những qui chế, qui định của cấp trên, Ban biên tập cụ thể hoá xây dựng cho mình kế hoạch công tác hàng ngày, hàng tuần... nội dung cần bao quát những việc gì cần làm ngay những việc gì có tính giai đoạn “dài hơi” định hướng. Kế hoạch phải cụ thể có tính khả thi không gò ép và có tính mở đảm bảo cấp dưới có thể hiểu và thực hiên được. Quá trình triển khai, quán triệt cần phải ngắn gọn, rõ ràng, đầy đủ và có những vấn đề cần được thảo luận tạo sự thống nhất cao, khi có những tình huống đột xuất có thể xử lý kịp thời. Khi đã có kế hoạch rồi cần triển khai có hiệu quả kế hoạch đã đề ra. Tổ chức công việc, người lãnh đạo, quản lý căn cứ vào năng lực, tinh thần làm việc, điều kiện làm việc của phóng viên, biên tập viên và từng bộ phận nghiệp vụ để phân công công tác.
Việc phân công, tổ chức công việc là một yếu tố quan trọng để có thông tin tốt. Khi có tin, bài rồi, việc tổ chức biên tập, chỉ đạo xuất bản, bố trí vào các chuyên trang, chuyên mục cũng rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng tin bài. Để nâng cao chất lượng thông tin, cần phải tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp ủy chi bộ, vai trò gương mẫu của đảng viên. Phát huy vai trò của các đoàn thể trong hoạt động chuyên môn. Vai trò lãnh đạo phải được thể hiện từ khâu đầu tới khâu cuối của quá trình định hướng, khai thác, xử lý thông tin. Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của cán bộ phóng viên thông qua các hoạt động hành chính, thông qua chỉ tiêu tin bài, thông qua chính nội dung tin bài hoặc thông qua cán bộ lãnh đạo các cấp để kiểm tra trên cơ sở kết quả kiểm tra để điều chỉnh bổ xung kế hoạch kịp thời giả quyết và uốn nắn những hạn chế thiếu sót của cấp dưới. Việc làm này giúp lãnh đạo nắm sâu hơn, chắc hơn chỉ đạo tình hình hoạt động của cơ quan báo chí có hiệu quả hơn.
Người làm báo không chỉ cần có trình độ về báo chí mà đòi hỏi còn phải có trình độ về lĩnh vực kinh tế nói chung, kinh tế xanh nói riêng. Chỉ khi được trang bị kiến thức về kinh tế xanh thì khi đó, chúng ta mới có được khả năng tuyên truyền nhạy bén, có được đánh giá, phân tích sâu sắc trên cơ sở quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế xanh.
Đổi mới công tác tuyên truyền về kinh tế xanh. Thông qua các chuyên trang, chuyên mục và các hoạt động chính trị xã hội, đối ngoại làm cho mọi đối tượng hiểu và thực hiện có hiệu quả về đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế xanh của Đảng và Nhà nước. Nâng cao chất lượng một số thể loại báo chí nhằm tăng cường định hướng thông tin, dư luận xã hội, thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mỗi tờ báo. Thực hiện tốt nhiệm vụ đó góp phần tuyên truyền một cách khoa học, có hiệu quả nhất các chủ trương, đường lối và nhiệm vụ về kinh tế xanh của Đảng, Nhà nước. Tăng cường tổ chức giao lưu trực tuyến, vì thông qua hình thức này nhân dân có thể hiểu hơn về về kinh tế xanh.
Đa dạng hoá công tác kêu gọi sự hỗ trợ từ cộng đồng có thể đóng góp vào quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh như hệ thống loa, pano, áp phích.
Tích cực tuyên truyền quá trình triển khai thực hiện “Chương trình nghị sự 2030 về phát triển bền vững của Liên hợp quốc; triển khai chiến lược tăng trưởng xanh như Nghị quyết Trung ương 5 khoá XII và Đại hội XIII đã yêu cầu.
Các cơ quan thông tấn báo chí cần tăng cường tính phát hiện những tổ chức, doanh nghiệp vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường để có những tiếng nói chung đẩy lùi cái tiêu cực, đồng thời phản biện, giám sát việc thực thi những chế tài xử lý theo quy định của pháp luật.
Các tổ chức, cơ quan, bộ, ngành có liên quan cần phối hợp với Hội Nhà báo Việt Nam; các cơ quan thông tấn báo chí tổ chức các cuộc thi viết về kinh tế xanh, bảo vệ môi trường; những cuộc thi viết về những tấm gương người tốt việc tốt có những sáng tạo về đổi mới công nghệ sản xuất; những sáng chế, phát minh mới… theo định hướng phát triển kinh tế xanh của Đại hội lần thứ XII, XIII của Đảng.
Đẩy mạnh đầu tư công nghệ thông tin trong các cơ quan báo chí. Với ưu thế và sự trợ giúp của công nghệ, thông tin có vị trí ngày càng quan trọng, là chìa khoá quyết định những ưu thế vượt trội của một tờ báo. Có lẽ, độc giả ngày càng được “đọc báo” nhiều hơn. Có lẽ, chỉ với 1 cái điện thoại thông minh, độc giả có thể đọc báo ở mọi nơi, mọi lúc. Để có thể thực hiện tốt hơn nữa công tác tuyên truyền về kinh tế xanh, báo chí cần chuẩn bị đủ điều kiện để đẩy mạnh phát triển công nghệ để nâng cao chất lượng hiệu quả và phát nhiều hơn nữa các trang tiếng dân tộc nhằm phục vụ nhu cầu tìm hiểu của họ, đồng thời tạo khả năng tiếp nhận, phản hồi những ý kiến đóng góp của bạn đọc đối với Đảng và Nhà nước ta về phát triển kinh tế xanh./.