Kinh tế xanh ở Việt nam – Nhận thức, vấn đề đặt ra và một số kiến nghị
(ĐCSVN) - Muốn hiện thực hóa được kinh tế xanh, Việt Nam cần phải tập trung nghiên cứu và áp dụng các công nghệ cao, công nghệ mới để phục vụ và triển khai thực thi cho các lĩnh vực, ngành nghề thiết yếu cho kinh tế xanh. Song song với đó, cần đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến để tạo nền tảng khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng cơ chế, chính sách, và giải pháp quản lý xanh một cách có hiệu quả.
Ở Việt Nam, lần đầu tiên khái niệm kinh tế xanh gắn liền với tăng trưởng xanh được đưa ra vào năm 2012 trong Chiến lược quốc gia đầu tiên mang tính tổng thể về lĩnh vực phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam[1]. Đặc biệt, ở tầm quan điểm chỉ đạo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh; quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khoẻ nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”[2].
Cũng tại Chiến lược này, mục tiêu chung của kinh tế xanh ở Việt Nam nhằm đạt tới: “Tăng trưởng xanh, tiến tới nền kinh tế các-bon thấp, làm giàu vốn tự nhiên trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế bền vững; giảm phát thải và tăng khả năng hấp thụ khí nhà kính dần trở thành chỉ tiêu bắt buộc và quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội”. Đặc biệt, lần đầu tiên, nội hàm của kinh tế xanh ở Việt Nam được Chính phủ xác định: “Tăng trưởng xanh là một nội dung quan trọng của phát triển bền vững, đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững và góp phần quan trọng thực hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu”; trong đó, có ba nhiệm vụ chiến lược được lựa chọn: Một, giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; Hai, xanh hóa sản xuất; Ba, xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững.
1. Hệ sinh thái kinh tế xanh
Về thực chất, kinh tế xanh là nền kinh tế mà tăng trưởng kinh tế gắn với trách nghiệm bảo vệ môi trường, đồng thời hỗ trợ quá trình phát triển xã hội. Việc hình thành kinh tế xanh phải được dựa trên sự tăng cường đầu tư cho các lĩnh vực giúp bảo vệ và phát triển vốn tự nhiên, hạn chế suy giảm sinh thái và các rủi ro về môi trường. Do vậy, kinh tế xanh không phải ngẫu nhiên xuất hiện. Để có thể hình tành và vận hành được nền kinh tế xanh thì điều tất yếu là phải có được hệ sinh thái kinh tế xanh, xem đây là điều kiện tiên quyết, là điều kiện cần và đủ đảm bảo cho sự xuất hiện kinh tế xanh. Cho đến nay, chưa có sự thống nhất về nội hàm của hệ sinh thái kinh tế xanh. Từ cách tiếp cận của mình, chúng tôi cho rằng, hệ sinh thái kinh tế xanh là hệ thống chỉnh thể các yếu tố và điều kiện cần thiết đảm bảo cho nền kinh tế xanh hình thành và vận hành một cách bình thường. Theo đó, hệ sinh thái kinh tế xanh phải bao gồm ít nhất những yếu tố và điều kiện sau: chủ thể xanh; chiến lược tăng trưởng xanh; khung pháp lý xanh; môi trường kinh tế - xã hội xanh; quản trị xanh; nguồn lực xanh; liên kết xanh và phương tiện vận hành xanh.
Trạm xử lý nước thải tập trung tại Khu công nghiệp Yên Bình (TP. Phổ Yên, Thái Nguyên) có công suất xử lý 60.000m³ nước thải/ngày đêm. |
Chủ thể xanh
Để tạo lập và vận hành kinh tế xanh thì trước hết phải có chủ thể xanh để nhận thức được sự tất yếu của kinh tế xanh và có đủ năng lực để thúc đẩy sự hình thành và vận hành kinh tế xanh. Các chủ thể kinh tế xanh bằng sức lực và trách nhiệm của mình đều có thể góp phần thúc đẩy tăng trưởng xanh thực sự với tầm nhìn hướng tới tương lai. Các chủ thể xanh có thể bao gồm cả các cá nhân, tập thể, Chính phủ, chính quyền các cấp và nhất là các chủ thể doanh nhân và doanh nghiệp. Các chủ thể xanh trong quá trình hoạt động, tác nghiệp của mình phải luôn sử dụng biện pháp bảo vệ môi trường, giữ gìn hệ sinh thái tài nguyên thiên nhiên; đồng thời biết vận dụng và chuyển đổi sang sử dụng công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường nhằm giúp nâng cao năng suất sản xuất, tiết kiệm nguyên liệu, đáp ứng tiêu chuẩn của nền kinh tế xanh.
Chiến lược tăng trưởng xanh
Chiến lược phát triển kinh tế xanh chính là sự nhận diện và định hình tầm nhìn chiến lược tổng thể về tăng trưởng xanh nhằm mang lại sự thịnh vượng cho quốc gia và tất cả mọi người. Chiến lược này phải được dựa trên và tuân theo những nguyên tắc vừa đảm bảo các yêu của chuẩn mực quốc tế, vừa thể hiện được sắc thái đặc thù của dân tộc, trong đó phải lựa chọn và định hướng cải cách kinh tế cho phù hợp với bối cảnh khác nhau, nhất là phải giảm thiểu tối đa chất thải, thường xuyên tái chế tài nguyên và hướng tới sự bền vững tối đa. Thực chất của chiến lược tăng trưởng xanh chính là làm “thay đổi mô hình tăng trưởng từ mô hình tăng trưởng theo chiều rộng dựa vào đầu tư, tăng vốn và khai thác tài nguyên thiên nhiên với hiệu quả sử dụng thấp sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu dựa vào các yếu tố năng suất liên quan đến sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân”[3].
Khung pháp lý xanh
Để đảm bảo cho việc hình thành và vận hành kinh tế xanh một cách ổn định và bền vững lâu dài thì bắt buộc phải có khung pháp lý xanh. Khung pháp lý xanh chính là tạo điều kiện và nền tảng pháp luật cho việc hình thành, hoạt động của kinh tế xanh có được cơ sở hợp pháp mà ở đó kinh tế xanh được nhà nước và xã hội thừa nhận là một trạng thái kinh tế có tính pháp quy trong hiện thực. Thực tiễn cho thấy, quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh có thể gặp nhiều thách thức từ kinh tế nâu và do đó có thể làm chậm quá trình áp dụng các chính sách xanh. Chính vì vậy, khung pháp lý xanh phải được xây dựng để tạo lập sản xuất xanh, phải thiết lập các quy định môi trường chặt chẽ, khuyến khích tài chính cho công nghệ xanh và các tiêu chuẩn nâng cao về hiệu quả năng lượng xanh cũng như phải xác định được các khung khổ pháp lý cho đầu tư xanh, cho việc ứng dụng công nghệ cao, công nghệ hữu cơ, công nghệ sạch. Nói tóm lại các chính sách này đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền nền kinh tế hướng tới các giải pháp thay thế xanh hơn, nhờ đó tăng cường việc bảo vệ môi trường, kích thích đổi mới và đầu tư vào các công nghệ bền vững.
Môi trường kinh tế - xã hội xanh
Môi trường kinh tế - xã hội xanh chính là phải thiết lập được bầu không khí hoạt động xanh cho kinh tế xanh. Trong môi trường kinh tế - xã hội xanh, các hệ giá trị được đảm vảo và phát huy như: các giá trị đa dạng của thiên nhiên, các giá trị thị trường xanh, các giá trị sản xuất, đầu tư, thu hút nguồn vốn nước ngoài đảm bảo thân thiện với môi trường, rồi phải có hoạt động trao đổi và dịch vụ xanh; thừa nhận và tuân thủ các giá trị ưu trội của văn hóa của thiên nhiên, các gia trị kinh tế - xã hội bền vững,… Nói tóm lại, đó là quá trình tạo lập và vận hành các giá trị xanh (môi trường kinh tế - xã hội xanh) làm nền tảng cho toàn bộ hoạt động sống của cá nhân và xã hội không chỉ trong hiện tại mà cả cho tương lai.
Quản trị xanh
Để vận hành được một phương thức kinh tế mới, - kinh tế xanh, đương nhiên phải có nền quản trị tương ứng, - quản trị xanh. Quản trị xanh, có nghĩa là cần phải định hình cơ chế quản lý thay đổi, không đi theo con đường cũ, giúp cho mô hình phát triển xanh cho đất nước, tạo ra nhu cầu đào tạo và phát triển con người, phục vụ cho mô hình xanh. Quản trị xanh nhằm tạo ra sự tiên phong Chính phủ, chính quyền địa phương và cộng đồng doanh nghiệp trong việc áp dụng vận hành xanh nhằm tạo ra hiệu quả và động lực cho những sự thay đổi tiếp theo trong tăng trưởng xanh. Có thể học mô hình quản trị xanh mà Singapore đã đưa ra. Singapore đặt mục tiêu đến năm 2030 trở thành một thành phố xanh và đẹp về thiên nhiên. Kế hoạch Xanh Singapore 2030 tiến hành khởi động phong trào toàn quốc và thúc đẩy chương trình nghị sự quốc gia của Singapore về phát triển bền vững ở 5 trụ cột: Thành phố trong thiên nhiên; tái quy hoạch năng lượng; sống bền vững; kinh tế xanh và tương lai tự cường[4].
Nguồn lực xanh
Để có thể hình thành một nên kinh tế mới, - kinh tế xanh thì tất yêu phải có nguồn lực xanh làm cơ sở, nền tảng, điều kiện. Đó chính là khía cạnh tài chính. Việc chuyển đổi từ ngành truyền thống sang ngành xanh thường đòi hỏi đầu tư thích đáng vào công nghệ và cơ sở hạ tầng mới. Đối với các nước đang phát triển, đây có thể là một trở ngại lớn do nguồn tài chính hạn chế. Hơn nữa, sự chuyển đổi này còn có thể dẫn đến sự gián đoạn nhất thời trong các ngành công nghiệp truyền thống và có thể tạo ra căng thẳng kinh tế và những bức xúc xã hội. Bởi vậy, cần phải xây dựng một hệ thống tài chính với mục đích mang lại phúc lợi và sự bền vững, được thiết lập nhằm phục vụ an toàn cho lợi ích của xã hội. Song, điều quan trọng nhất là, trong tăng trưởng xanh rất cần nguồn lực xanh - nguồn lực vốn tự nhiên. Cần phải đổi mới trong việc quản lý các hệ thống tự nhiên, phát huy tối đa các đặc tính và công dụng của chúng. Suy cho cùng, nguồn lực xanh nhằm tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững thông qua việc sử dụng và bảo vệ hiệu quả, có trách nhiệm các hệ sinh thái và tài nguyên thiên nhiên, để chúng có thể tiếp tục cung cấp nguyên liệu, môi trường và khí hậu cho sự thịnh vượng và phát triển kinh tế xanh. Từ đây, cần tính toán việc phân bổ nguồn lực đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực mà ở đó phát huy lợi thế “vốn tự nhiên” của các nguyên liệu có thể tái tạo.
Liên kết xanh
Gắn liền với hình thành và vận hành một nền kinh tế xanh thực sự phải thông qua liên kết xanh. Kinh tế xanh là kinh tế liên ngành, gồm các tổ chức được tích hợp mà trong đó có cả liên kết dọc và liên kết ngang, nhờ đó góp phần đem lại hiệu quả, năng suất và trách nhiệm cao trong hoạt động của kinh tế xanh. Liên kết kinh tế xanh đòi hỏi có sự tham gia của tất cả các tổ chức, xã hội công cộng, tư nhân và dân sự, để nhằm tạo ra sự đồng thuận trong việc đáp ứng các nhu cầu xã hội. Liên kết xanh còn xây dựng, thúc đẩy và phất triển thúc đẩy liên kết, hợp tác giữa doanh nhân, doanh nghiệp, các nhà khoa học, các trung tâm, viện nghiên cứu, các trường đại học với nông dân; hơn thế nữa còn có sự tăng cường liên kết, hợp tác giữa các tổ chức của doanh nhân, doanh nghiệp với nhau theo hướng xây dựng các mô hình sản xuất theo chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị xanh. Đặc biệt, sự liên kết xanh còn đòi hỏi các chính phủ và khu vực tư nhân cùng hợp tác để giảm thiểu biến đổi khí hậu một cách hiệu quả, thúc đẩy nền kinh tế theo hướng xanh hơn.
Phương tiện vận hành xanh
Một nền kinh tế xanh đương nhiên phải có được những phương tiện và công cụ xanh để vận hành. Phương tiện xanh ở đây chính là phải đổi mới công nghệ sản xuất theo hướng hình thành và sử dụng hệ thống công nghệ xanh: công nghệ cao, các công nghệ năng lượng tái tạo, sử dụng năng lượng hiệu quả; công nghệ hữu cơ thân thiện với môi trường. Đặc biệt, trong điều kiện đang diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cần phải tiếp cận và triển khai hiện thực hóa những công nghệ tiên tiến nhất như: công nghệ nano và nhất là công nghệ số, công nghệ trí tuệ nhân tạo. Song song với quá trình đổi mới công nghệ thì trong thực tế công nghệ sản xuất hiện nay, phần lớn là công nghệ cũ, tiêu hao năng lượng lớn, do đó, việc thay đổi công nghệ mới phù hợp với nền kinh tế xanh để thực hiện tăng trưởng xanh là thách thức không nhỏ nếu không có sự trợ giúp về vốn và công nghệ của các nước phát triển có công nghệ cao trên thế giới[5].
2. Vấn đề đặt ra và một số kiến nghị
2.1. Vấn đề đặt ra
Vấn đề kinh tế xanh ở Việt Nam hiện nay không còn bàn sẽ thực hiện hay không thực hiện mà đã và đang thực sự đặt lên bàn nghị sự trong hoạt động hàng ngày của cả nền kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, phát triển kinh tế xanh hiện nay còn có một số hạn chế, còn những vấn đề đặt ra đó là: nhận thức, khung pháp lý và gặp phải những rào cản về nguồn vốn, nguồn nhân lực, nguồn lực khoa học và công nghệ.
Thứ nhất, nhận thức về kinh tế xanh
Kinh tế xanh là vấn đề còn mới và là quá trình “dò đá qua sông” ở Việt Nam. Để hình thành và vận hành được kinh tế xanh trên thực tế, đòi hỏi phải sự đổi mới tư duy, phải tạo lập được nhận thức, cách làm và hành vi ứng xử là nhằm hướng đến xây dựng ý thức trách nhiệm với thiên nhiên, môi trường, con người và xã hội. Đi liền với đó, phải hình thành được tâm thức về môi trường, về sự phát triển bền vững, sự phát triển hài hòa với thiên nhiên. Từ đó, mỗi người dân sẽ có những hành động cụ thể, thiết thực trong tiết kiệm tài nguyên, sử dụng năng lượng hiệu quả, hạn chế rác thải, tham gia trồng cây xanh, bảo vệ đa dạng sinh học, ... Đây là yêu cầu cần và đủ về nhận thức để cho kinh tế xanh có thể có được ở nước ta.
Song, rất tiếc là trên thực tế ở Việt Nam hiện nay, tư duy về kinh tế xanh vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, “nhận thức về kinh tế xanh còn nhiều vấn đề chưa được rõ ràng và cần tiếp tục nghiên cứu, phổ biến kiến thức trong xã hội, từ cấp lãnh đạo cho đến các doanh nghiệp và cộng đồng. Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến cuối năm 2018, chỉ có 7 bộ, ngành và 34/63 tỉnh, thành phố đã ban hành kế hoạch thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh”[6].
Thứ hai, về chủ thể kinh tế xanh
Chủ thể kinh tế xanh, - đó chính là nguồn nhân lực xanh. Nguồn nhân lực xanh chính là lực lượng nòng cốt để làm nên tăng trưởng xanh và kinh tế xanh. Sự hình thành và vận hành của kinh tế xanh đặt ra yêu cầu và đòi hỏi sự nổ lực chung của mỗi cá nhân, doanh nghiệp, địa phương phải có trách nhiệm, ý thức được và thực hiện hiệu quả các kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế xanh, phát triển bền vững. Thiếu nguồn nhân lực xanh không chỉ làm giảm tính hiệu quả của sản xuất và đầu tư xanh mà còn dần dần làm triệt tiêu niềm tin của xã hội vào kinh tế xanh và thậm chí dẫn đến sự sụp đổ của tăng trưởng xanh và kinh tế xanh. Thế nhưng, ở Việt Nam hiện nay, “các doanh nghiệp chưa có nhiều cơ hội tiếp cận với các kiến thức, kinh nghiệm, công nghệ tiên tiến, hiện đại của nước ngoài;… Nguồn nhân lực chất lượng cao không đủ đáp ứng nhu cầu phát triển trong lĩnh vực, sự chuyển dịch cấu trúc nguồn nhân lực sang hướng tăng trưởng xanh còn chậm” [7]
Thứ ba, về nguồn lực xanh
Việc chuyển đổi và thúc đẩy phát triển từ kinh tế nâu sang kinh tế xanh đòi hỏi phải có một sự đầu tư rất lớn. Điều này có nghĩa là nguồn lực cho tăng trưởng xanh (nguồn lực xanh) phải đủ cho việc chuyển đổi trạng thái kinh tế nếu muốn có được kinh tế xanh. Hơn thế nữa, việc phát triển kinh tế xanh còn phụ thuộc vào sự hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật từ các tổ chức quốc tế. Theo các chuyên gia “Đầu tư vào phát triển xanh đòi hỏi nguồn lực tài chính rất lớn. Theo tính toán của Bộ Kế hoạch đầu tư và Ngân hàng thế giới, Việt Nam cần khoảng 30 tỷ đô la Mỹ để thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh đến năm 2030. Trong đó, ngân sách Nhà nước chỉ có thể đáp ứng tối đa khoảng 30% nguồn lực và cần huy động tới 70% từ các nguồn lực khác, mà chủ yếu là khu vực tư nhân”[8].
Trong khi đó, đối với Việt Nam chúng ta, việc đáp ứng cho nguồn lực xanh còn hạn chế. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã chỉ ra: “Việt Nam là nước đang phát triển, nền kinh tế đang chuyển đổi, còn nhiều khó khăn… trong xây dựng cơ chế, chính sách, chuyển giao công nghệ, thu xếp nguồn tài chính, đào tạo nhân lực chất lượng cao, nâng cao năng lực quản trị… để thúc đẩy phát triển xanh”[9].
Thứ tư, về khung pháp lý xanh
Để thúc đẩy kinh tế xanh, trước mắt là giải quyết vấn đề môi trường đang ngày càng cấp bách, Việt Nam cần thực hiện một số cải cách quan trọng, nhất là cần phải tạo lập hành lang pháp lý cho kinh tế xanh. Cần hoàn thiện các cơ chế cơ chế như thuế đóng vai trò thiết yếu trong việc thúc đẩy tiết kiệm năng lượng, tài nguyên và nâng cao ý thức trách nhiệm bảo vệ môi trường cũng như nhằm khuyến khích sử dụng tài nguyên hiệu quả và giảm thiểu ô nhiễm. Tuy nhiên, phải thấy rằng “về hành lang pháp lý, mặc dù Chính phủ cũng đã ban hành và phê duyệt các chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và phát triển bền vững theo từng thời kỳ. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật vẫn chưa thật sự đồng bộ, chưa có văn bản pháp luật cụ thể quy định về năng lượng xanh và năng lượng tái tạo; cần ban hành luật mới về phát triển công nghiệp và bảo vệ môi trường... Bên cạnh đó, công tác quản lý thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xanh ở các ngành, vùng và địa phương trên cả nước chưa thật sự liên kết và thống nhất với nhau”[10].
Thứ năm, về phương tiện để hiện thực hóa kinh tế xanh
Muốn hiện thực hóa được kinh tế xanh, Việt Nam cần phải tập trung nghiên cứu và áp dụng các công nghệ cao, công nghệ mới để phục vụ và triển khai thực thi cho các lĩnh vực, ngành nghề thiết yếu cho kinh tế xanh, bao gồm công nghệ giảm thiểu phát thải carbon, phát triển năng lượng tái tạo và năng lượng thân thiện với môi trường. Song song với quá trình này, cần được đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến để tạo nền tảng khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng cơ chế, chính sách, và giải pháp quản lý xanh một cách có hiệu quả. Song, trên thực tế hiện nay, “chất lượng nguồn lao động cho nền kinh tế xanh tại Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu về trình độ khoa học công nghệ cao của chiến lược phát triển kinh tế xanh. So với thế giới thì dây chuyền sản xuất và công nghệ ở Việt Nam phần lớn là công nghệ cũ và lỗi thời, tiêu tốn khá nhiều nhiên liệu, năng lượng. Do đó, việc áp dụng dây chuyền sản xuất hiện đại và công nghệ tiên tiến vào nền kinh tế xanh là thách thức lớn cho Việt Nam, rất cần có nguồn nhân lực chất lượng cao đảm nhiệm”[11]
2.2. Kiến nghị
Một là, theo Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn đang trở thành xu thế tất yếu, đòi hỏi các quốc gia, trong đó có Việt Nam cần chuyển đổi sớm, dù con đường này sẽ có nhiều thách thức... nhưng không thể không làm[12]. Điều này có nghĩa là để có thể có kinh tế xanh thì chúng ta cần phải đưa ra được một giải pháp tổng thể, nghĩa là cần phải xây dựng và thực thi hệ sinh thái kinh tế xanh, phải hoàn thiện hệ thống chính sách về phát triển kinh tế xanh để tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia của doanh nghiệp vào nền kinh tế xanh và hưởng lợi từ mô hình này. Hơn thế nữa, việc xây dựng hệ sinh thái tổng thể về phát triển kinh tế xanh phải có lộ trình phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước nhằm hướng đến phát triển bền vững, giảm sử dụng nguyên liệu hóa thạch, tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo.
Hai là, cần tạo lập ngay khung pháp lý xanh
Xây dựng và ban hành được hành lang pháp lý cho kinh tế xanh là tiền đề cực kỳ quan trong để cho nền kinh tế này vận hành trên thực tế. Chính trong Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 10/10/2023 của Bộ Chính trị “về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới” đã chỉ rõ: “Quan tâm xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về phát triển kinh tế số, xã hội số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, các mô hình, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh mới để mở rộng không gian phát triển cho doanh nhân, doanh nghiệp;…”[13].
Việc nghiên cứu xây dựng hoàn thiện khung chính sách pháp luật về kinh tế xanh, Việt Nam có thể tham khảo cách làm của Hàn Quốc. Năm 2010, Hàn Quốc ban hành Luật Tăng trưởng xanh, đây được nhận định là đạo luật quy định bao quát tất cả các vấn đề có liên quan đến năng lượng, ứng phó biến đổi khí hậu, phát triển kinh tế bền vững...[14]. Như vậy, hơn lúc nào hết, Việt Nam cần sớm xây dựng hệ thống hành lang pháp lý về tăng trưởng xanh, đầu tư xanh xanh, tiêu dùng xanh,… một cách đồng bộ, phù hợp với điều kiện thực tiễn của khu vực và từng địa phương, phù hợp bối cảnh quốc tế mới để thu hút đầu tư.
Ba là, phải đào tạo nhân lực xanh
Nghị quyết 41-NQ/TW của Bộ Chính trị “về phát huy vai trò đội ngũ doanh nhân trong tình hình mới” cũng đã yêu cầu: “Xây dựng Chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng doanh nhân, khuyến khích doanh nhân ở tất cả các thành phần kinh tế tham gia, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng các vấn đề mới như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, khởi nghiệp, quản trị kinh doanh hiện đại, kiến thức pháp luật, kinh nghiệm thực tiễn, xu hướng kinh doanh mới… Triển khai các chương trình hỗ trợ pháp lý, nâng cao năng lực cho doanh nhân, doanh nghiệp tham gia có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do, các cam kết quốc tế của Việt Nam.”[15]
Như vậy, vấn đề là ở chỗ, việc đào tạo nhân lực xanh đòi hỏi, một mặt,
Chính phủ cần đầu tư nguồn lực nhiều hơn nữa vào phát triển và ứng dụng công nghệ cao, phát triển năng lượng, đặc biệt là trong các lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu xanh; mặt khác, việc đào tạo nguồn nhân lực này phải được thực thi ngay trong các cơ sở đào tạo đại học để chúng ta có ngay lực lượng xanh phục vụ cho việc triển khai kinh tế xanh.
Bốn là, phải tăng cường truyền thông về kinh tế xanh
Trước hết, cần phải truyền thông để nâng cao nhận thức, hiểu thế nào là tăng trưởng xanh, kinh tế xanh. Việc xây dựng nền kinh tế xanh để hướng tới phát triển bền vững, đòi hỏi phải được nghiên cứu và phổ biến rộng rãi trong tầng lớp lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách, các doanh nghiệp và người dân. Tăng cường truyền thông, nâng cao nhận thức của người dân và doanh nghiệp về phát triển xanh góp phần vào sự tăng trưởng bền vững của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế nói chung. Tăng cường tổ chức các hội thảo, diễn đàn khoa học để trao đổi kiến thức, kinh nghiệm về phát triển kinh tế xanh. Nếu không nhận thức đầy đủ, tính đồng thuận trong xã hội về kinh tế xanh sẽ không đạt được, do vậy sẽ khó thực hiện mục tiêu và chiến lược tăng trưởng xanh đã đề ra./.
[1] Xem: Quyết định số 1393/QĐ-TTg, ngày 25/9/2012 của Chính phủ phê duyệt về “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050”.
[2] ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t. 1, Nxb CTQG ST, HN, 2021, tr. 116-117
[3]Xem: TS. Phạm Quốc Sử: Kinh tế xanh - Cơ hội và nhiều thách thức. Http://pbgdpl.camau.gov.vn/kinh-te-xanh-co-hoi-va-nhieu-thach-thuc. (11/05/2023)
[4]Xem: ThS. Đoàn Thị Cẩm Thư (Viện Nghiên cứu Khoa học và Công nghệ Ngân hàng - Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh): Phát triển kinh tế xanh: Kinh nghiệm quốc tế và bài học đối với Việt Nam
[5]Xem: TS. Phạm Quốc Sử: Kinh tế xanh - Cơ hội và nhiều thách thức. Http://pbgdpl.camau.gov.vn/kinh-te-xanh-co-hoi-va-nhieu-thach-thuc. (11/05/2023)
[6]Theo: Kinh tế xanh là gì? Nguyên tắc, thực trạng và tác động. https://www.pace.edu.vn/tin-kho-tri-thuc/kinh-te-xanh-la-gi
[7]Xem: ThS. Trần Ánh Ngọc (Trường Đại học Thương mại) - Kinh tế xanh ở Việt Nam: Cơ hội và thách thức
https://tapchilaodong.vn/kinh-te-xanh-o-viet-nam-co-hoi-va-thach-thuc-1327356.html 08:31 AM 27/05/2023 )
[8]Xem: ThS. Trần Ánh Ngọc (Trường Đại học Thương mại) - Kinh tế xanh ở Việt Nam: Cơ hội và thách thức
https://tapchilaodong.vn/kinh-te-xanh-o-viet-nam-co-hoi-va-thach-thuc-1327356.html 08:31 AM 27/05/2023 )
[9]Phát biểu của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại “Diễn đàn Kinh tế Xanh 2023: Nâng cao năng lực bền vững của Việt Nam, tăng cường hợp tác với EU thúc đẩy sáng kiến xanh” được tổ chức ngày 02/11/2023 tại Hà Nội. https://moit.gov.vn/tin-tuc/hoat-dong/dien-dan-kinh-te-xanh-2023-nang-cao-nang-luc-ben-vung-cua-viet-nam-tang-cuong-hop-tac-voi-eu-thuc-day-sang-kien-xanh.html, 02/11/2023
[10]Xem: ThS. Đoàn Thị Cẩm Thư (Viện Nghiên cứu Khoa học và Công nghệ Ngân hàng - Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh): Phát triển kinh tế xanh: Kinh nghiệm quốc tế và bài học đối với Việt Nam
[11]Xem: ThS. Đoàn Thị Cẩm Thư (Viện Nghiên cứu Khoa học và Công nghệ Ngân hàng - Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh): Phát triển kinh tế xanh: Kinh nghiệm quốc tế và bài học đối với Việt Nam
[12]Phát biểu của Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà tại “Diễn đàn Nhịp cầu Phát triển Việt Nam 2024 (Vietnam Connect Forum) lần thứ 4”. Xem: Phúc Minh - Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà: Chuyển đổi xanh là con đường có khó khăn nhưng không thể không làm. https://vneconomy.vn/pho-thu-tuong-tran-hong-ha-chuyen-doi-xanh-la-con-duong-co-kho-khan-nhung-khong-the-khong-lam.htm 10/04/2024
[13]Xem: Nghị quyết 41-NQ/TW về phát huy vai trò đội ngũ doanh nhân trong tình hình mới” https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-nghi-quyet-41-cua-bo-chinh-tri-ve-phat-huy-vai-tro-doi-ngu-doanh-nhan-119231011165500282.htm 10/05/2024
[14]Xem: Phúc Anh - Pháp luật về phát triển kinh tế xanh của một số nước và những gợi mở cho Việt Nam
Https://phaply.net.vn/phap-luat-ve-phat-trien-kinh-te-xanh-cua-mot-so-nuoc-va-nhung-goi-mo-cho-viet-nam-a257841.html 29/04/2024 17:15
[15] Xem: Nghị quyết 41-NQ/TW về phát huy vai trò đội ngũ doanh nhân trong tình hình mới” https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-nghi-quyet-41-cua-bo-chinh-tri-ve-phat-huy-vai-tro-doi-ngu-doanh-nhan-119231011165500282.htm 10/05/2024.