Cần có chính sách đặc thù chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho phụ nữ dân tộc thiểu số
(ĐCSVN) – Trong thời gian qua, mặc dù việc chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho phụ nữ dân tộc thiểu số (DTTS) đã có nhiều tiến bộ, tuy nhiên, do đặc thù của vùng DTTS và miền núi là địa hình đi lại khó khăn, trình độ văn hóa còn thấp, nhiều hủ tục lạc hậu còn tồn tại… nên cần có chính sách đặc thù để nâng cao chất lượng sức khỏe sinh sản cho đối tượng này.
Cần thực hiện các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới thực chất và xóa bỏ tình trạng phân biệt đối xử phức hợp, đan xen đối với phụ nữ DTTS trong quá trình tiếp cận các dịch vụ sức khoẻ bà mẹ, trẻ sơ sinh và trẻ em. |
Còn nhiều chênh lệch
Tóm tắt về tình hình phụ nữ và trẻ em gái DTTS ở Việt Nam của UN Women và Ủy ban Dân tộc (2015) cho biết, tỷ lệ tử vong bà mẹ ở một số nhóm DTTS (H’mong, Thái, Ba Na, Tày, Dao, Nùng), cao gấp bốn lần so với phụ nữ Kinh. Tỷ lệ phụ nữ DTTS từ 12-29 tuổi mang thai có đến cơ sở y tế khám thai là 70,90%, so với tỷ lệ phụ nữ Kinh/Hoa từ 15-49 tuổi mang thai được chăm sóc bởi một cán bộ y tế có chuyên môn trong quá trình mang thai là 99%.
Mặc dù tình trạng phụ nữ DTTS sinh con tại nhà đã giảm khá nhanh trong thời gian qua, tuy nhiên đến năm 2015 vẫn còn 36,3% phụ nữ DTTS sinh con tại nhà, so với tỷ lệ 0,5% của phụ nữ Kinh. Tỷ lệ phụ nữ DTTS sinh con tại cơ sở y tế là 63,6%, so với tỷ lệ tương ứng của phụ nữ Kinh là 99,1%.
Trong đó đáng chú ý, một số DTTS có tỷ lệ phụ nữ đến sinh con tại các cơ sở y tế dưới 20% như La Hủ, Si La, La Ha, Lự, Mảng, Hà Nhì, Cống. Nguyên nhân phụ nữ DTTS không đến sinh con tại các cơ sở y tế, bên cạnh lý do giao thông đi lại khó khăn, hoặc điều kiện kinh tế hộ gia đình khó khăn, còn do tập tục không cho phép phụ nữ DTTS sinh con tại cơ sở y tế.
Tỷ lệ phụ nữ DTTS được chăm sóc sau sinh trong hai ngày sau khi sinh là 64%, thấp hơn đáng kể so với tỷ lệ 96% của phụ nữ Kinh. Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh ở người DTTS cao hơn rất nhiều so với người Kinh...
Chưa hết, theo kết quả Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ (2014) của Tổng cục Thống kê, phụ nữ DTTS có xu hướng sinh con sớm hơn nhiều so với phụ nữ Kinh. Tỷ suất sinh con của nữ vị thành niên DTTS là 115 trẻ sinh ra trên 1000 nữ vị thành niên, cao hơn nhiều so với con số tương ứng của nữ vị thành niên người Kinh là 30 trẻ sinh ra trên 1000 nữ vị thành niên.
Đến năm 2019, theo kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế-xã hội của 53 DTTS của Tổng cục Thống kê, tỷ lệ phụ nữ DTTS từ 10-49 tuổi mang thai có đến cơ sở y tế khám thai là 88%, tăng 17,1% so với năm 2015; tỷ lệ phụ nữ DTTS sinh con tại cơ sở y tế đạt 86,4%, tăng tới 22,8% so với năm 2015. Tuy nhiên những tỷ lệ này vẫn thấp hơn đáng kể so với phụ nữ dân tộc Kinh.
Cùng với đó, chênh lệch giữa các vùng kinh tế-xã hội cũng khá lớn. Tây Nguyên có tỷ lệ phụ nữ DTTS từ 10 đến 49 tuổi sinh con tại cơ sở y tế là 84,2%, thấp hơn tới 14,2% so với vùng Đồng bằng sông Cửu Long là 98,4%. Có thể thấy, mặc dù vấn đề chăm sóc sức khỏe nói chung và sức khỏe sinh sản nói riêng đối với phụ nữ DTTS đã có nhiều tiến bộ trong thời gian qua nhưng vẫn còn khoảng cách đáng kể so với phụ nữ dân tộc Kinh.
Nguyên nhân của chênh lệch trong chăm sóc sức khoẻ giữa phụ nữ DTTS và phụ nữ Kinh -Hoa được các chuyên gia chỉ ra là do những hạn chế, yếu kém của hệ thống chăm sóc sức khỏe ở vùng DTTS, các trung tâm y tế xã chất lượng dịch vụ thấp. Cùng với đó, phụ nữ DTTS không tìm đến dịch vụ chăm sóc sức khỏe còn do rào cản ngôn ngữ và những tập tục văn hoá lâu đời; không đủ khả năng chi trả cho dịch vụ; và muốn được nhân viên y tế nữ khám bệnh…
Đa dạng các biện pháp tiếp cận
Các chuyên gia nghiên cứu cho rằng, để khắc phục được tình trạng đó cần thực hiện các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới thực chất và xóa bỏ tình trạng phân biệt đối xử phức hợp, đan xen đối với phụ nữ DTTS trong quá trình tiếp cận các dịch vụ sức khoẻ bà mẹ, trẻ sơ sinh và trẻ em.
Theo bà Lê Thị Lan Phương, chuyên gia Chương trình của UN Women (Cơ quan Liên Hợp Quốc về Bình đẳng giới và Trao quyền cho Phụ nữ) cần tiếp tục giảm tỷ lệ tử vong bà mẹ và tăng cường chăm sóc sức khỏe trẻ sơ sinh và trẻ em DTTS thông qua cải thiện chất lượng và mức độ sẵn có của dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em vùng DTTS.
Muốn thế cần tăng cường, nâng cao năng lực khám, chữa bệnh của các cán bộ y tế để họ có đủ khả năng xử trí các tình huống khác nhau về tai biến sản khoa và các bệnh liên quan đến thai sản. Từ đó, đảm bảo an toàn, sức khỏe, hạnh phúc cho bà mẹ và trẻ em; khai thác hiệu quả các nền tàng thông tin, truyền thông trực tuyến, hệ thống tư vấn từ xa thông qua các ứng dụng di động và nền tảng trực tuyến nhằm khắc phục những khó khăn do những điều kiện văn hóa xã hội đặc biệt, rào cản ngôn ngữ, vị trí địa lý do người DTTS hầu hết sống rất xa các cơ sở y tế.
Tăng cường hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức, hiểu biết của người DTTS, đặc biệt là nữ DTTS trong độ tuổi sinh đẻ về chăm sóc sức sức khỏe sinh sản, chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ sơ sinh và trẻ em |
Đồng thời, tăng cường khả năng tiếp cận của phụ nữ DTTS tới dịch vụ chất lượng về chăm sóc sức khỏe bà mẹ trước, trong và sau sinh thông qua nâng cao chất lượng dịch vụ, mức độ bao phủ và tính phù hợp về mặt văn hóa, ngôn ngữ của các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh ở vùng DTTS.
Cùng với đó tăng cường hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức, hiểu biết của người DTTS, đặc biệt là nữ DTTS trong độ tuổi sinh đẻ về chăm sóc sức sức khỏe sinh sản, chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ sơ sinh và trẻ em. Vận động người DTTS từ bỏ các tập tục của địa phương về sinh đẻ tại nhà; thực hành sinh đẻ có sự chăm sóc của cán bộ y tế được đào tạo; bảo đảm chế độ dinh dưỡng phù hợp với sự phát triển về thể chất, tinh thần của trẻ em theo từng độ tuổi.
Các chuyên gia cũng nhấn mạnh đến việc phân bổ đủ nguồn lực trong ngân sách quốc gia dành cho chăm sóc sức khoẻ với trọng tâm là bà mẹ và trẻ em DTTS. Nâng cao kiến thức và khả năng tiếp cận của phụ nữ trẻ và trẻ em gái DTTS tới chăm sóc sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản.
UN Women đưa ra các khuyến nghị tăng cường hỗ trợ người chưa thành niên DTTS tiếp cận thông tin và các dịch vụ hỗ trợ chăm sóc sức khoẻ tình dục và sức khoẻ sinh sản, bao gồm: các biện pháp kế hoạch hoá gia đình và các biện pháp tránh thai; sự nguy hiểm của việc mang thai sớm; phòng tránh HIV/AIDS; và phòng tránh, điều trị các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục.
Chính phủ, Bộ Y tế cần tiếp tục có những biện pháp về việc nâng cao năng lực của hệ thống y tế cơ sở, tăng cường đầu tư, tăng cường đào tạo cho đội ngũ y tế đang công tác tại các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Trước mắt, trong giai đoạn hiện tại vẫn tiếp tục triển khai đào tạo lại và đào tạo mới mô hình "Cô đỡ thôn bản"…/./