Bảo đảm vai trò “mạch máu” của nền kinh tế
(ĐCSVN) - Được ví như “mạch máu” của nền kinh tế, ngành logistics giữ vai trò rất quan trọng trong việc kết nối, hỗ trợ và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, ngành logistics vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, đặc biệt là trong năm 2021 dưới tác động của đại dịch COVID-19.Việc bảo đảm vai trò và vận hành thông suốt “mạch máu” của nền kinh tế đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của thị trường là vấn đề cấp thiết đang được đặt ra cho ngành logistics Việt Nam hiện nay.
Thị trường logistics tại Việt Nam được cộng đồng doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế đánh giá đầy tiềm năng để phát triển mạnh mẽ (Ảnh: T.L) |
Theo nghiên cứu trong năm 2021 của Bộ Công Thương, chỉ số năng lực hoạt động của ngành logistics tăng và đạt 3,34 điểm so với 3,27 điểm của năm 2018. Việt Nam cũng là nước được xếp hạng trong Top 10 của Chỉ số logistics của thị trường mới nổi với tốc độ tăng trưởng cao ở mức 14% - 16% trong một năm.
Thực tế, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa từ năm 2010 đến nay đã tăng 3,6 lần, GDP tăng 2,4 lần, từ 157 tỷ USD vào năm 2010 lên 544 tỷ USD vào năm 2020, trong đó xuất khẩu tăng bình quân 4,5%/năm, trở thành động lực hết sức quan trọng trong động lực tăng trưởng kinh tế đất nước. Hai năm qua, dịch bệnh tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế, phải đối mặt với khó khăn chưa từng thấy, xuất nhập khẩu vẫn tăng trưởng dương hai con số. Cụ thể sau 11 tháng, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa đạt 600 tỷ USD, tăng 22,3% so cùng kỳ, trong đó xuất khẩu gần 300 tỷ USD, tăng 17,5%. Kết quả này có sự đóng góp tích cực của ngành logistics Việt Nam với vai trò là nhân tố hỗ trợ trong trung chuyển hàng hóa. Doanh nghiệp logistics đã nỗ lực để bảo đảm chuỗi cung ứng của Việt Nam hoạt động bình thường, trong những thời điểm khó khăn nhất, giúp trung chuyển lượng hàng hóa xuất nhập khẩu lớn. Trong ngắn hạn, kinh tế Việt Nam vẫn phải đối diện với rủi ro dịch bệnh nhưng triển vọng tăng trưởng vẫn khá tích cực.
Do đó, có rất nhiều yếu tố thuận lợi có thể tạo đà cho sự phát triển của logistics. Thứ nhất, kinh tế thế giới và Việt Nam sẽ có sự hồi phục mạnh mẽ, được hỗ trợ bởi cấc chính sách kích thích tăng trưởng, hiệu quả từ các chính sách tiêm chủng trên diện rộng. Nhiều nước trên thế giới đã bắt đầu nối lại hoạt động sản xuất, lưu thông hàng hóa từ quý III/2021, tạo nguồn cầu lớn cho dịch vụ logistics. Ở trong nước, các biện pháp chuyển đổi mô hình chống dịch, mở cửa trở lại nền kinh tế sẽ giúp kinh tế phục hồi tăng trưởng tốt hơn trong quý IV/2021, cũng như năm 2022.
Việt Nam vẫn đang tiếp tục hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, có nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, tăng trưởng xuất nhập khẩu tiếp tục ở mức cao, nhờ 15 hiệp định thương mại tự do đã ký kết. Ngoài ra, Việt Nam còn nằm trong trong TOP các nước có tốc độ phát triển thương mại điện tử cao nhất khu vực Đông Nam Á, Năm 2020, thương mại điện tử Việt Nam năm 2020 tăng 16% và đạt quy mô trên 14 tỷ USD, dự kiến tăng trưởng trung bình 29% trong 5 năm tới. Theo đó, hàng hóa của thương mại điện tử được yêu cầu chuyển phát nhanh tới người tiêu dùng. Đây là mảnh đất màu mơ cho các doanh nghiệp logistics tăng cường đầu tư củng cố chất lượng dịch vụ, đón lõng cơ hội tăng trưởng.
Cùng với tốc độ tăng trưởng cao của GDP, xuất nhập khẩu, ngành logistics Việt Nam có tốc độ tăng trưởng cao 12-14%/năm, tỷ lệ doanh nghiệp thuê ngoài dịch vụ logistics cũng gia tăng mạnh đạt 60-70% và cho đến giờ phút này, đóng góp của ngành logistics đã đạt 4-5% GDP.
Đánh giá tổng quan về ngành logistics thời gian qua, tại phiên toàn thể Diễn đàn Logistics Việt Nam 2021 do Bộ Công thương tổ chức mới đây, Bộ trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diên cũng nêu rõ, thị trường logistics tại Việt Nam được cộng đồng doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế đánh giá đầy tiềm năng để phát triển mạnh mẽ, nhất là sau khi đại dịch COVID-19 được kiểm soát và các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại phục hồi, tăng trưởng trở lại... Với sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao, quyết liệt của Chính phủ; sự phối hợp, hỗ trợ kịp thời của các bộ, ngành, địa phương, đặc biệt là nỗ lực vượt bậc của cộng đồng doanh nghiệp, ngành logistics Việt Nam đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ, duy trì mức tăng trưởng hai con số, bước đầu đáp ứng được yêu cầu của các khách hàng trong nước và quốc tế, góp phần quan trọng trong việc thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, nâng tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu năm 2021 vượt mốc 660 tỷ USD, tăng gần 23% so năm 2020, đưa Việt Nam vào nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế. Đây là kết quả đáng khích lệ trong bối cảnh thương mại toàn cầu và trong nước gặp nhiều khó khăn, thách thức do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, ngành logistics vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, đặc biệt là trong năm 2021 dưới tác động của đại dịch COVID-19. Nguyên nhân có cả khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan chủ yếu là các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động dịch vụ logistics chưa đầy đủ, đồng bộ. Thực tế, cơ sở hạ tầng phục vụ logistics tuy đã được quan tâm đầu tư, nâng cấp nhưng còn thiếu tính kết nối và chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Hầu hết các doanh nghiệp logistics có quy mô nhỏ cả về lao động, tài chính, kinh nghiệm hoạt động, chưa vươn ra được thị trường logistics quốc tế. Việc chuyển đổi số trong các khâu của logistics còn hạn chế. Việc đào tạo chuyên sâu về logistics tại các cơ sở đào tạo chưa được quan tâm đúng mức.
Đặc biệt, trong hai năm qua, đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội, các quy định về giãn cách xã hội, hạn chế đi lại và vận chuyển ở nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ đã khiến chuỗi cung ứng bị gián đoạn, chi phí vận tải biển tăng cao, trực tiếp khiến logistics toàn cầu bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Những điểm yếu cố hữu của ngành logistics Việt Nam đã bộc lộ rõ hơn như chi phí logistics vẫn ở mức cao, chiếm khoảng hơn 20% tổng GDP quốc gia, cao hơn nhiều so chi phí logistics trung bình trên thế giới đang dao động ở mức 11% - 12% GDP.
Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh liên kết giữa các doanh nghiệp logistics - doanh nghiệp sản xuất - doanh nghiệp xuất khẩu còn yếu và chưa hình thành được mạng lưới các doanh nghiệp logistics Việt Nam với quy mô lớn, có khả năng và năng lực dẫn dắt thị trường để thúc đẩy ngành phát triển. Hơn nữa, chuyển đổi số trong ngành logistics còn chậm, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển, nguồn nhân lực của ngành còn yếu và thiếu, mới chỉ đáp ứng được 10% nhu cầu của thị trường và chưa theo kịp được sự phát triển của logistics trên thế giới. Sự chuẩn bị về kiến thức, kỹ năng, thái độ, cũng như trạng thái tâm lý của nhân lực logistics Việt Nam để sẵn sàng đón nhận việc dịch chuyển lao động giữa các nước ASEAN cũng như tham gia vào các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới chưa cao.
Trong bối cảnh này đặt ra yêu cầu ngành logistics phải có giải pháp để duy trì sự chống chịu bền bỉ, đảm bảo vai trò của logistics trong duy trì các chuỗi cung ứng hàng hoá dịch vụ, vừa phải có tư duy tầm nhìn và giải pháp đặc biệt, định hình hướng đi mới để bắt kịp với thế giới, tạo bước đột phát cho phục hồi kinh tế - xã hội trong những năm 2022 - 2023, cho cả giai đoạn thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 – 2030.
Mặt khác, theo Báo cáo logistics Việt Nam 2021, hiện có hơn 4.000 doanh nghiệp logistics hoạt động chuyên nghiệp cung cấp dịch vụ logistics quốc tế. Chất lượng dịch vụ của các doanh nghiệp ngày càng được nâng cao nhờ tăng cường ứng dụng chuyển đổi số, cải tiến quy trình nghiệp vụ, đặc biệt là các doanh nghiệp logistics cung cấp dịch vụ cho thị trường châu Âu, Mỹ và Trung Quốc. Một số doanh nghiệp logistics cũng đã tham gia chương trình Hộ chiếu logistics thế giới và nâng cao chất lượng cải thiện mối quan hệ với khách hàng quốc tế.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp logistics Việt Nam tiếp tục phải đối mặt với việc cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp logistics nước ngoài. Chưa kể, doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam chiếm tỷ trọng lớn (khoảng 95%), nhưng đa số là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ cung cấp các dịch vụ chưa có giá trị gia tăng cao. Vì vậy doanh thu của các doanh nghiệp logistics nước ngoài luôn chiếm thị phần logistics cao hơn.
Thực tế minh chứng, có hai yếu tố tác động chính đến việc số hóa của doanh nghiệp, thứ nhất là nhu cầu của khách hàng. Khách hàng hiện nay đã đẩy mạnh số hóa để tiến gần hơn đến người tiêu dùng, theo đó chuỗi cung ứng cần nhanh hơn, linh hoạt hơn. Thứ hai, là yêu cầu của cơ quan chức năng quản lý nhà nước.
Chính phủ Việt Nam đang hướng đến nền kinh tế số. Chính vì vậy, nếu không số hóa, có khả năng chúng ta sẽ bị lùi lại phía sau. Do đó, doanh nghiệp phải có những bước đi chiến lược cho việc số hóa của mình.
Do đó, để hỗ trợ doanh nghiệp logistics vượt khó khăn, nắm bắt cơ hội chuyển đổi, phục hồi chuỗi cung ứng, phát triển bền vững ngành logistics, theo các chuyên gia kinh tế, cần tăng cường gói hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp và tiếp tục giảm thuế, chi phí cho các doanh nghiệp logistics. Không áp dụng các chính sách làm tăng chi phí logistics nói chung; đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng logisitcs. Hệ thống hạ tầng logistics hiện nay chưa đồng bộ và hiện đại nhằm đáp ứng yêu cầu dịch vụ logistics, nhất là vận tải đa phương thức; Sớm tiến hành điều chỉnh bổ sung Luật Thương mại 2005 để có các quy định mới phù hợp tình hình hiện nay của hoạt động logistics. Đặc biệt, Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ, thúc đẩy chuyển đổi số của các doanh nghiệp logistics, phát triển một số doanh nghiệp logistics mạnh phát triển logistics tích hợp, logistics phục vụ thương mại điện tử nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp logistics trong thị trường nội địa và trên thị trường quốc tế.