Logo báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam

Xu hướng và giải pháp phát triển bất động sản xanh ở Việt Nam

Thứ Năm, 04/07/2024 08:23 (GMT+0)
zalo-icon
viber-icon

(ĐCSVN) - Phát triển các bất động sản xanh đang là xu hướng chung trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Đặc biệt, triển vọng cao nhất đang thuộc về hai nhóm phân khúc: văn phòng xanh và khu công nghiệp, kho vận xanh.

1. Xu hướng và triển vọng của thị trường bất động sản xanh

Phát triển các bất động sản xanh đang là xu hướng chung trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Đặc biệt, triển vọng cao nhất đang thuộc về hai nhóm phân khúc: văn phòng xanh và khu công nghiệp, kho vận xanh.

Về văn phòng xanh

Việt Nam đang được nhiều nhà đầu tư nước ngoài xem xét là một trong những địa điểm thay thế trong chiến lược đa dạng hóa chuỗi cung ứng. Tuy nhiên, sự thiếu vắng các cao ốc văn phòng chất lượng cao và đạt chứng nhận xanh về môi trường - xã hội - quản trị (ESG) đang ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định của họ.

Trên thực tế, quy mô thị trường văn phòng ở Thành phố Hồ Chí Minh chỉ bằng khoảng 1/3 thị trường Bangkok (Thái Lan) và Jakarta (Indonesia), và bằng ¼ so với Manila (Philippines). Trong khi mật độ nhân viên văn phòng  ở Thành phố Hồ Chí Minh gấp ba lần so với Bangkok, Manila, Jakarta và gấp đôi so với Singapore. Giá thuê trung bình văn phòng hạng A tại Thành phố Hồ Chí Minh cao gấp 2 - 3 lần so với Bangkok, Jakarta và Manila.

Tại châu Á - Thái Bình Dương và Việt Nam, phân khúc văn phòng xanh là một trong những loại tài sản lớn nhất và sẽ tiếp tục là thành phần cốt lõi trong danh mục đầu tư bất động sản. Hoạt động cho thuê văn phòng thường nhạy cảm trước các biến động kinh tế bởi nó liên quan đến tình hình việc làm và ngân sách của khách  thuê.  Những  khó khăn kinh tế hiện tại có  thể  khiến  nhà  đầu  tư  trì  hoãn chiến lược đầu tư văn phòng. Nhưng việc nắm bắt các đặc điểm về cung - cầu, rủi ro - lợi nhuận, cũng như am hiểu thị trường địa phương sẽ giúp nhà  đầu  tư  và  chủ  đầu  tư tăng tính chống chịu cho bất động sản văn phòng và kiểm soát những tác động tới tài sản của  họ  trong  các  chu  kỳ kinh tế và thị trường. Mặc dù có những rủi ro ở  một thị trường cận biên như Việt Nam, nhưng  vẫn có nhiều cơ hội hấp dẫn cho nhà đầu tư nhạy bén biết nghiên cứu thấu đáo và ra quyết định đúng thời điểm.

Hơn nữa, trong thời gian tới, nhu cầu thuê và mối quan hệ giữa chủ đầu tư - khách thuê văn phòng sẽ thay đổi theo hướng khách thuê văn phòng ngày càng chú trọng vào các dự án chất lượng cao, không gian đổi mới sáng tạo và có dịch vụ vận hành tốt, nhằm nâng cao chất lượng môi trường làm việc và đáp ứng các tiêu chí bền vững.

Đồng thời, các điều khoản thuê văn phòng sẽ dần linh hoạt hơn, đòi hỏi các chủ đầu tư văn phòng cung cấp những gói ưu đãi mới hoặc tiện ích đáp ứng yêu cầu ESG (bộ tiêu chuẩn về môi trường, xã hội và quản trị doanh nghiệp) của khách thuê, chẳng hạn như thêm thời gian hoàn thiện văn phòng, thêm các điều kiện ưu ái nhằm giữ chân khách thuê... Bởi vậy, các chủ đầu tư cần chủ động xác định nhu cầu và mong muốn của người trực tiếp sử dụng nhằm thay đổi và áp dụng những phương thức vận hành mới, từ đó đáp ứng tốt hơn những yêu cầu và kỳ vọng của họ. Điều này không chỉ giúp tăng doanh thu, tỷ lệ lấp đầy và hiệu  suất tài sản  của chủ đầu tư, mà còn tạo ra giá trị thật về kinh tế - xã hội và môi trường cho cộng đồng nói chung.

Việc định giá bất động sản văn phòng cũng dần thay đổi, không chỉ dựa trên các chỉ số về nhu cầu thuê, mức lấp đầy và giá thuê. Văn phòng có thể tạo ra nhiều giá trị hơn cả tài chính cho bên thuê và bên cho thuê, tất cả dựa trên chiến lược phát triển và vận hành.

Nếu xác định đúng chiến lược và tối ưu quá trình vận hành, bất động sản văn phòng là khoản đầu tư hoàn hảo đem lại nguồn thu nhập hấp dẫn và lợi ích dài hạn.

Về khu công nghiệp và kho vận xanh

Khu công nghiệp xanh, sạch, sinh thái là xu thế tất yếu đang diễn ra trên toàn cầu. Việc phát triển các khu công nghiệp bền vững bắt đầu từ sinh thái công nghiệp, chuyển đổi mô hình sản xuất theo nền kinh tế tuyến tính sang nền kinh tế tuần hoàn. Trong đó, hệ sinh thái công nghiệp được phát triển như một hệ sinh thái tự nhiên, tuần hoàn khi chất thải, phụ phẩm của một doanh nghiệp này sẽ phải là đầu vào cho một quá trình sản xuất của đơn vị khác. Ðây là những yêu cầu bức thiết, cũng là yêu cầu bắt buộc đối với khu vực sản xuất công nghiệp để phát triển theo hướng xanh, bền vững, góp phần hiện thực hóa các cam kết của Việt Nam tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26) hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) vào năm 2050, cũng như phù hợp với Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050.

Theo khảo sát 200 doanh nghiệp FDI của Công ty trách nhiệm hữu hạn KPMG Việt Nam, bên cạnh các ưu tiên như vị trí, nguồn nhân lực, các hạ tầng logistics khác, xu hướng khu công nghiệp xanh cũng là yếu tố được các doanh nghiệp FDI ưu tiên khi lựa chọn địa điểm đầu tư. Theo đó, hiện có 4 mô hình khu công nghiệp hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài, được nhiều quan tâm nhất là: khu công nghiệp sinh thái - xu hướng của thế giới; khu công nghiệp đô thị dịch vụ - công nhân có chỗ ở và yên tâm làm việc; khu công nghiệp thông minh - quản lý, kết nối hệ thống điện, xử lý nước thải bằng hệ thống thông minh; khu công nghiệp tích hợp logistics, nhà kho, bến cảng.

Việt Nam được đánh giá còn nhiều dư địa để phát triển các khu công nghiệp xanh, sinh thái và bền vững. Các khu công nghiệp bền vững/khu công nghiệp sinh thái được thiết kế để giảm thiểu tác động đến môi trường, thúc đẩy hiệu quả sử dụng tài nguyên và triển khai các thông lệ bền vững tại những doanh nghiệp hoạt động trong phạm vi khu công nghiệp. Những khu công nghiệp này chú trọng việc tích hợp các cân nhắc về môi trường, xã hội và kinh tế vào cách thiết kế, vận hành và quản lý.

Các khu công nghiệp bền vững/khu công nghiệp sinh thái trong tương lai ở Việt Nam có thể bao gồm kết cấu hạ tầng thân thiện với môi trường, tích hợp các nguồn năng lượng tái tạo, hệ thống quản lj nước hiệu quả, cơ sở tái chế chất thải và không gian xanh để giảm tác động đến môi trường.

Phát triển các bất động sản xanh đang là xu hướng chung trên thế giới 

Các khu công nghiệp này cũng nên chú trọng vào hiệu quả sử dụng tài nguyên bằng cách thúc đẩy phương pháp sản xuất sạch hơn, giảm tiêu thụ năng lượng, qua đó giảm lượng khí thải carbon, tối ưu hóa việc sử dụng nước,  giảm  thiểu phát sinh chất thải thông qua các nguyên tắc tái chế và kinh tế tuần hoàn.

Một đặc điểm quan trọng khác là việc sở hữu các chứng nhận xanh, chẳng hạn như LEED (Thiết kế đạt chuẩn hàng đầu về năng lượng và môi trường) hoặc EDGE (Thiết kế xuất sắc để đạt hiệu quả cao hơn) do Chứng nhận công trình xanh (GBCI) cấp, nhằm thể hiện việc tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường và thông lệ bền vững.

Ngoài các khía cạnh môi trường rõ rệt, các khu công nghiệp bền vững/khu công nghiệp sinh thái có thể đặt mục tiêu đóng góp cho sự phát triển xã hội bằng cách cung cấp cơ hội việc làm, tăng cường đào tạo kj năng và cải thiện điều kiện sinh hoạt cho người lao động tại khu công nghiệp. Họ cũng có thể hợp tác với các cơ quan chính phủ, các bên liên quan trong khu vực tư nhân, các tổ chức quốc tế và cộng đồng địa phương để cùng thực hiện các sáng kiến bền vững, chia sẻ những thông lệ tốt nhất và thúc đẩy đổi mới.

Theo Vụ Quản lý các khu kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính hết tháng 10/2023, cả nước đã thành lập 413 khu công nghiệp (bao gồm 369 khu công nghiệp nằm ngoài các khu kinh tế; 37 khu công nghiệp nằm trong các khu kinh tế ven biển; 07 khu công nghiệp nằm trong các khu kinh tế cửa khẩu), với tổng diện tích đất tự nhiên đạt khoảng gần 120 nghìn ha. Tổng diện tích đất công nghiệp đạt khoảng 87,7 nghìn ha. Trong đó, có 295 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động, với tổng diện tích đất tự nhiên đạt khoảng hơn 92 nghìn ha, diện tích đất công nghiệp đạt khoảng  63 nghìn ha, có 267/295 khu công nghiệp đã hoàn thành xây dựng và vận hành hệ thống xử lj nước thải tập trung (đạt tỷ lệ 90,5%); 119 khu công nghiệp đang trong quá trình xây dựng với tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 37,5 nghìn ha, diện tích đất công nghiệp đạt khoảng 24,7 nghìn ha. Tỷ lệ lấp đầy của các khu công nghiệp đã đi vào hoạt động đạt khoảng 73%. Quy hoạch phát triển các khu kinh tế ven biển Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt bao gồm 19 khu kinh tế ven biển với tổng diện tích 871,5 nghìn ha (tính cả diện tích mặt biển), trong đó, diện tích đất liền là 583,1 nghìn ha (chiếm 1,75% diện tích đất quốc gia) và 288,4 nghìn ha diện tích mặt biển. Trong thời gian tới, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các địa phương nghiên cứu, xây dựng Luật Khu công nghiệp, khu kinh tế để bảo đảm tăng cường tính cạnh tranh quốc tế của các mô hình khu công nghiệp, khu kinh tế tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các khu công nghiệp, khu kinh tế trên cả nước phát triển nhanh, bền vững và hiệu quả, đặc biệt, đối với các mô hình khu công nghiệp mới như khu công nghiệp sinh thái.

Theo Hội Môi giới bất động sản Việt Nam, cả nước dự kiến sẽ quy hoạch tăng thêm 115.000 ha đất dành cho khu công nghiệp trong 10 năm tới với khoảng 558 khu công nghiệp trên cả nước, gấp gần 1,5 lần so với số lượng hiện nay. Bên cạnh đó, quy hoạch nhiều tỉnh, thành phố giai đoạn 2021 - 2030 cũng sẽ giải quyết phần nào các vướng mắc liên quan tới thủ tục pháp lý cho các khu công nghiệp. Những yếu tố này sẽ giúp bất động sản khu công nghiệp trong thời gian tới tiếp tục duy trì vị thế và tiếp tục tăng trưởng.

Trên thực tế, thị trường bất động sản công nghiệp những tháng đầu năm 2024 tiếp tục có sự phát triển ổn định, với nhu cầu mua và thuê với tỷ lệ lấp đầy cao và xu hướng này sẽ tiếp tục duy trì trong nhiều năm tới. Nguồn cung bất động sản công nghiệp đang chứng kiến sự tăng trưởng ở cả  hai miền Nam - Bắc. Nhu cầu bất động sản công nghiệp vẫn còn rất lớn, đặc biệt là nhu cầu về các kho nhiều tầng đa dụng và nhà kho xây sẵn.

Trong năm 2024, động lực thị trường kho vận sẽ tiếp tục được thúc đẩy bởi nhu cầu nội địa. Cùng với xu hướng toàn cầu, các hoạt động thương mại xuyên biên giới được dự báo sẽ có dấu hiệu phục hồi, nhưng với tốc độ chậm. Các chủ đầu tư tiếp tục phải đối mặt với thách thức cải thiện và duy trì hoạt động của tài sản. Đồng thời, dự báo về khác biệt đáng kể giữa giá chào thuê và giá giao dịch sẽ xuất hiện, đặc biệt là ở các dự án mới. Nguồn cung nhà kho xây sẵn mới sẽ gia tăng đáng kể vào năm 2024 với các dự án chất lượng cao tại Bắc Ninh, Hải Phòng và Hưng Yên, dự báo tăng thêm 700.000 m2, đưa tổng nguồn cung nhà kho xây sẵn hiện đại vào cuối năm 2024 tăng gấp 1,6 lần so với thời điểm hiện tại. Trong tương lai ngắn hạn, thị trường nhà kho xây sẵn hiện đại miền Bắc được kỳ vọng tiếp tục mở rộng ra các tỉnh lân cận như Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Quảng Ninh nhờ lợi thế giá đất cạnh tranh và nguồn đất sẵn có cho phát triển dự án mới. Trong đó, nhiều nhà đầu tư lớn như Mapletree, Khu công nghiệp Việt Nam, Indochina Kajima, Core5, Western Pacific Group đã có mặt tại các thị trường này và dự kiến hoàn thành các dự án vào năm 2024.

Theo báo cáo của CBRE, giá thuê đất công nghiệp tại các thị trường cấp 1 ở phía Bắc như Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương trong quj I/2024 tăng 7,8% so với cùng kỳ, đạt trung bình 133 USD/m2, với tỷ lệ lấp đầy đạt 83%. Còn tại phía Nam, giá thuê đất công nghiệp một số thị trường như Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Long An cũng tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước, đạt 189 USD/m2 (khoảng 4,7 triệu đồng/m2), với tỷ lệ lấp đầy ổn định ở mức 92%. Bên cạnh các thị trường cấp 1 truyền thống, các doanh nghiệp trong nước và ngoài  nước đang có xu hướng mở rộng ra các thị trường cấp 2 tiềm năng như Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu, nơi có quj đất công nghiệp dồi dào, giá thuê cạnh tranh.

Dự báo trong tương lai, nhu cầu thuê kho xưởng, đất công nghiệp, nhất là khu công nghiệp xanh sẽ tiếp tục tăng trong khi nguồn cung có phần hạn chế. CBRE kỳ vọng trong 3 năm tới, giá thuê đất công nghiệp dự kiến tăng 3 - 9%/năm ở miền Bắc và 3 - 7%/năm ở miền Nam. Giá thuê kho, nhà xưởng xây sẵn cũng tăng nhẹ 1 - 4%/năm.

Nhu cầu khu công nghiệp xanh tăng mạnh trong thời gian tới gắn với nhiều nguyên nhân: kinh tế Việt Nam có sự tăng trưởng tích cực; chính trị - xã hội ổn định; việc cải thiện môi trường đầu tư, chính sách đối với đầu tư nước ngoài của Việt Nam ngày càng phù hợp; Việt Nam chú trọng đầu tư kết cấu hạ tầng mới vào bất động sản các khu công nghiệp và hàng nghìn kilômét đường cao tốc liên vùng, giúp thúc đẩy sự giao lưu kinh tế - văn hóa thuận tiện giữa các vùng trong nước; sự định hướng phát triển xanh của nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước; sự quan tâm phát triển xanh của doanh nghiệp ngày càng tăng, nhu cầu và dòng vốn gia tăng đầu tư vào các ngành công nghiệp công nghệ cao, nhất là sản xuất điện tử, ôtô và phụ kiện, xe điện, bán dẫn hay vật liệu xanh; FDI gia tăng mạnh và nhiều dự án đầu tư khu công nghiệp mới được chấp thuận chủ trương đầu tư, bắt đầu triển khai các giai đoạn tiếp theo, kéo theo gia tăng nhu cầu về đất công nghiệp, nhà xưởng, kho bãi, logistics... Theo đó, thị trường bất động sản công nghiệp Việt Nam không chỉ chào đón các “đại bàng”, các tập đoàn đa quốc gia, mà còn đi kèm với đó là rất nhiều doanh nghiệp với các quy mô khác nhau trong chuỗi cung ứng sản xuất thông minh toàn cầu.

Đặc biệt, khi Việt Nam tiếp tục nâng cấp quan hệ ngoại giao với nhiều nền kinh tế lớn trong giai đoạn vừa qua, nền kinh tế nói chung và ngành sản xuất cũng như bất động sản khu công nghiệp Việt Nam dự kiến sẽ hưởng lợi và tiếp tục xu hướng phát triển.

Đầu tư vào khu công nghiệp bền vững/khu công nghiệp sinh thái tại Việt Nam mang lại nhiều lợi ích: nhà đầu tư hưởng nhiều ưu đãi về thuế và hỗ trợ của Chính phủ (giảm giá thuê đất, miễn thuế, cho vay ưu đãi và các khoản trợ cấp nhằm hỗ trợ công nghệ thân thiện với môi trường); có thể tiếp cận các lựa chọn tài chính xanh và quj đầu tư bền vững, nhờ đó tạo thêm nhiều cơ hội tăng trưởng; tiết kiệm chi phí lâu dài và nâng cao danh tiếng toàn cầu của nhà đầu tư, qua đó họ có thể mở rộng phạm vi thị trường và tăng doanh số; tăng cường gắn kết, cộng hưởng và khả năng hỗ trợ lẫn nhau giữa các bên và tổ chức liên quan. Đầu tư vào phát triển các khu công nghiệp bền vững không chỉ là đầu tư cho tương lai, mà còn là đầu tư cho hạnh phúc chung của cộng đồng, cho môi trường và cho ngày mai của tất cả chúng ta.

Tuy nhiên, theo Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết, có tới 50% doanh nghiệp trong các khu công nghiệp chưa từng nghe và biết đến khái niệm khu công nghiệp phát triển bền vững; 30% doanh nghiệp có nghe hiểu về khái niệm khu công nghiệp sinh thái; chỉ có 20% doanh nghiệp là hiểu rõ khu công nghiệp phát triển bền vững cần bảo đảm cân đối giữa kinh tế với môi trường, xã hội và quản trị.

Bởi vậy, tăng cường thông tin, tuyên truyền để tăng cường nhận thức về bất động sản xanh đang là vấn đề đặt ra cho cả doanh nghiệp và các bên liên quan...

2. Một số giải pháp thúc đẩy phát triển bất động sản xanh

Muốn thực hiện khu công nghiệp xanh, sinh thái và có tính bền vững đòi hỏi việc đầu tư phải đồng bộ ngay từ đầu với chi phí rất lớn. Nhưng hiện nay, các khu công nghiệp tại Việt Nam phần lớn đều được phát triển theo giai đoạn “cuốn chiếu”, cho nên chưa thực sự thân thiện với môi trường, không tiết kiệm tài nguyên, sử dụng nguồn nguyên liệu chưa hiệu quả.

Trong hệ thống pháp luật hiện hành còn thiếu những quy định, tiêu chí nhận diện và điều kiện cho việc chuyển đổi, phát triển khu công nghiệp bền vững. Bên cạnh đó, có quá nhiều luật liên quan đến điều chỉnh hoạt động và quá trình chuyển đổi khu công nghiệp như: Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Môi trường, Luật Quy hoạch, Luật Đất đai,... khiến không ít doanh nghiệp “nản chí”. Đơn cử, Nghị định số 35/2022/NĐ-CP, ngày 28/5/2022 của Chính phủ quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh  tế,  đưa ra chỉ  tiêu  có 20% doanh nghiệp trong khu công nghiệp phải thực hiện sản xuất sạch hơn, nhưng lại không quy định cụ thể thế nào là sạch hơn, hay thế nào là sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn. Trong khi để đáp ứng quy định trên, bản thân khu công nghiệp và các doanh nghiệp phải đầu tư nguồn tài chính rất lớn nhằm thay đổi toàn bộ công nghệ, dây chuyền, máy móc, thiết bị. Nếu không cụ thể hóa quy định thì rất khó khuyến khích doanh nghiệp chuyển đổi.

Sự phát triển các khu công nghiệp xanh mang lại nhiều lợi ích: giảm tác động môi trường, tiết kiệm năng lượng và nguồn lực, tăng cường đổi mới và sự hợp tác, nâng cao uy tín và hình ảnh thương hiệu ở thời điểm hiện tại, đồng thời giảm nguy cơ rủi ro về pháp lý trong tương lai, tạo ra môi trường làm việc tốt hơn trong khu công nghiệp, cũng như mang đến nhiều lợi ích cho cộng đồng... Việc chuyển đổi sang mô hình khu công nghiệp xanh, sinh thái cũng giúp thu hút làn sóng đầu tư mới, nhất là làn sóng FDI chất lượng cao. Do đó, trước mắt, các doanh nghiệp đầu tư khu công nghiệp cần cập nhật thông tin, định hướng của Chính phủ để hiểu rõ lợi ích việc chuyển đổi mô hình nhằm chủ động xây dựng lộ trình và thực hiện giải pháp chuyển đổi, xây dựng mới khu công nghiệp xanh, sinh thái theo chiến lược sản xuất kinh doanh. Đồng thời, đẩy mạnh huy động nguồn lực từ các tổ chức quốc tế, hiệp hội doanh nghiệp, quỹ tài chính khí hậu, đối tác chuyển đổi năng lượng cũng như các ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính xanh để phát triển khu công nghiệp xanh; tăng cường hợp tác với nhau nhằm tận dụng (dùng chung) các hệ thống hạ tầng sản xuất, tái sử dụng nguyên liệu sản xuất hoặc  có  thể kết hợp với doanh nghiệp thứ ba ở ngoài khu công nghiệp trong việc hiện thực hóa các kết nối cộng sinh công nghiệp. Nhà nước cần ban hành thêm chính sách ưu đãi, khuyến khích, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp, nhất là cần lấp “lỗ hổng” về pháp lý, sớm gỡ bỏ các rào cản đối với quá trình chuyển đổi khu công nghiệp; trong đó, phải đưa ra những thể chế cụ thể để doanh nghiệp làm căn cứ thực hiện và vận hành; bổ sung các chính sách ưu đãi về đất đai, tài chính, miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền thuê đất.

Để phát triển bất động sản xanh cần nhiều chi phí đầu tư đồng bộ ngay từ đầu. Một trong những thách thức nổi bật là doanh nghiệp “khát vốn”, do mức tăng trưởng tín dụng ngân hàng còn thấp, điều kiện tiếp cận tín dụng còn khó khăn, hồ sơ, thủ tục cho vay phức tạp, còn hiện tượng tiêu cực; lãi suất mặc dù đã giảm, song vẫn còn cao so với khả năng chi trả của doanh nghiệp, đặc biệt là cao so với lãi suất huy động của hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, nợ xấu có xu hướng gia tăng và tiềm ẩn rủi ro an toàn hệ thống. Để tháo gỡ khó khăn cho thị trường, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần chỉ đạo các tổ chức tín dụng rà soát các điều kiện tín dụng, linh hoạt hơn, sâu sát tình hình hơn, nhất là về tài sản thế chấp, thủ tục cho vay...; quyết liệt hơn các biện pháp để tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất cho vay. Việc điều hành tín dụng cần kịp thời, bao gồm cả việc cấp hạn mức tăng  tín  dụng mới bảo đảm luôn đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế; đẩy mạnh chống tiêu cực, không hạ chuẩn tín dụng, nhưng xử lý linh hoạt, phù hợp với tình hình; kịp thời xử lý các vướng mắc pháp lý; đẩy mạnh sử dụng các công cụ thị trường, giảm bớt và tiến tới loại bỏ công cụ hành chính...

Hơn nữa, cả ngân hàng và các nhà đầu tư bất động sản cần tỉnh táo và mạnh dạn cho vay hay chuyển hướng đầu tư tập trung vào các sản phẩm và lĩnh vực có triển vọng phát triển tốt, có nhu cầu xã hội thực và sức thanh khoản cao, nhất là bất  động sản  phục  vụ hoạt  động logicstics (hậu cần và kho bãi); những khu công nghiệp đã được quy hoạch “xây tổ đón đại bàng” của Chính phủ, cũng như các địa phương có tiềm năng; các sản phẩm nhà ở xã hội, chung cư bảo đảm chất lượng và tiện ích, môi trường sống xanh, lành mạnh, kết nối hạ tầng đồng bộ và vừa túi tiền, đáp ứng được nhu cầu thực của người dân. Thực tế cho thấy, các dự án được quản lý bởi các thương hiệu vận hành có uy tín và điều kiện bảo đảm tin cậy cao luôn có khả năng thu hút vốn đầu tư thuận lợi hơn các dự án đưa ra các cam kết lợi nhuận khủng, nhưng không có bảo đảm chắc chắn.

Ngoài ra, các cơ quan chức năng cũng cần tiếp tục rà soát sự hợp lý về trình tự và thời gian thực hiện các quy trình trong hành lang pháp lý cho dự án bất động sản.

Thực tế đòi hỏi Việt Nam cần phải có quỹ đất sạch để đáp ứng nhu cầu, đồng thời có quy hoạch tổng thể của cả nước, của từng địa phương, từng lĩnh vực để đưa ra chính sách ưu tiên phù hợp. Quy hoạch này cũng cần có tầm nhìn và có tính ổn định trong khoảng thời gian dài để doanh nghiệp yên tâm phát triển. Theo tinh thần Công điện số 993/CĐ-TTg, ngày 24/10/2023 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục thực hiện quyết liệt các giải pháp phát triển thị trường bất động sản  phát  triển  an  toàn,  lành  mạnh, bền vững, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, các địa phương cần đẩy nhanh việc lập, phê duyệt các quy hoạch, nhất là quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị làm cơ sở để triển khai các dự án bất động sản, sớm công khai danh mục dự án bất động sản phải lựa chọn chủ đầu tư theo hình thức đấu thầu để các doanh nghiệp có đầy đủ thông tin, chủ động nghiên cứu, đăng ký tham gia đầu tư một cách công khai, minh bạch... Các cơ quan chức năng và chủ đầu tư cần nhận diện đầy đủ và định hình sớm hệ thống cập nhật những quy chuẩn, tiêu chuẩn đồng bộ và phù hợp về các sản phẩm văn phòng xanh và khu công nghiệp xanh của Việt Nam.

Bên cạnh đó, Bộ Xây dựng cần tăng cường chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ giải quyết các thủ tục hành chính liên quan đến các dự án bất động sản; tăng cường thanh tra, kiểm tra để kịp thời hướng dẫn và xử lý các trường hợp gây khó khăn, phiền hà trong giải quyết thủ tục hành chính cho người dân và doanh nghiệp.

Bản thân các doanh nghiệp bất động sản cũng phải cơ cấu lại phân khúc và giá thành sản phẩm; tiếp tục cải thiện chất lượng dự án và củng cố niềm tin đối với các nhà đầu tư, đẩy mạnh huy động vốn qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán. Hiệp hội Bất động sản Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh hoạt động tư vấn, giám định, phản biện xã hội, nắm bắt thực tế khó khăn, vướng mắc của đơn vị, tổ chức các chương trình kết nối hội viên, doanh nghiệp với thị trường đầu tư, thị trường vốn, các quy đầu tư và hợp tác quốc tế... nhằm tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn đang tạo rào cản, làm trì trệ hoạt động kinh tế - xã hội, không chỉ góp phần tạo môi trường hoạt động thuận lợi, minh bạch cho các doanh nghiệp, mà còn thúc đẩy thị trường bất động sản Việt Nam phát triển lành mạnh, bền vững...

Nhìn chung, có thể thấy, dù còn khá mới so với các thị trường khác trong khu vực, phân khúc bất động sản xanh tại Việt Nam là mảnh đất màu mỡ cho các nhà đầu tư. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, việc phát triển các dự án bất động sản xanh là rất cần thiết, góp phần giảm tác động môi trường, nâng cao sức khỏe và hạnh phúc của con người./.

TS. Nguyễn Văn Đính, Minh Trí - Hội Môi giới Bất động sản Việt Nam

có thể bạn quan tâm

Ý KIẾN BÌNH LUẬN