Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Hội nghị Cấp cao Ủy hội sông Mê Công quốc tế lần thứ 4
(ĐCSVN) - Với vị thế là quốc gia cuối nguồn và phải chịu các tác động ngày càng nghiêm trọng do các hoạt động phát triển ở thượng nguồn trong bối cảnh biến đổi khí hậu, Việt Nam đã xác định hợp tác trong Ủy hội sông Mekong quốc tế là một cơ chế hợp tác vùng có cơ sở pháp lý chặt chẽ nhất, có cơ cấu thể chế có truyền thống lâu dài và ổn định, và quan trọng hơn cả là cơ chế hợp tác về tài nguyên nước lưu vực sông Mekong đầy đủ duy nhất trong khu vực.
Thủ tướng Phạm Minh Chính lên đường dự Hội nghị Cấp cao Ủy hội sông Mekong quốc tế. |
Chiều 4/4, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã rời Hà Nội lên đường tham dự Hội nghị Cấp cao Ủy hội sông Mê Công quốc tế lần thứ 4 tại Thủ đô Viêng Chăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào theo lời mời của Thủ tướng Chính phủ Lào Sonexay Siphandone.
Tháp tùng Thủ tướng Phạm Minh Chính dự hội nghị có: Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng; Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan; Thứ trưởng Bộ Công an Nguyễn Duy Ngọc; Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đỗ Hùng Việt; Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Thành; Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành; Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Xuân Sang; Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Hoàng Giang; Đại sứ Việt Nam tại Lào Nguyễn Bá Hùng.
Với chủ đề của Hội nghị Cấp cao Ủy hội sông Mekong quốc tế lần thứ tư là "Đổi mới và hợp tác nhằm đảm bảo an ninh nguồn nước và sự phát triển bền vững của lưu vực sông Mekong". Hội nghị Cấp cao Ủy hội sông Mekong quốc tế lần thứ tư có ý nghĩa rất quan trọng nhằm kiểm điểm quá trình 4 năm hoạt động của Ủy hội kể từ Hội nghị Cấp cao lần thứ ba. Việt Nam tham dự hội nghị trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh được giữ vững, GDP tăng trưởng 8,02% trong năm 2022, cao nhất trong 11 năm qua và cao hàng đầu khu vực.
Tham dự Hội nghị sẽ có Thủ tướng Chính phủ của 4 nước thành viên Ủy hội; ngoài ra có lãnh đạo/đại diện của 2 nước Đối tác đối thoại (Trung Quốc và Myanmar), 12 Đối tác phát triển (Australia, EU, Đức, Luxembourg, Hà Lan, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Bỉ, Phần Lan, Nhật Bản, Mỹ và Ngân hàng Thế giới), các tổ chức quốc tế và khu vực, các tổ chức xã hội và cộng đồng trong lưu vực.
Mục tiêu của Hội nghị là tiếp tục khẳng định cam kết chính trị ở cấp cao nhất của 4 quốc gia thành viên trong việc tăng cường thực hiện hiệu quả Hiệp định Mekong năm 1995 và chức năng của Ủy hội; khẳng định các mục đích và nguyên tắc hợp tác vì sự phát triển bền vững của lưu vực; ghi nhận các thành tựu đạt được từ các hội nghị cấp cao trước đây; phân tích, đánh giá các thách thức và cơ hội liên quan đến nguồn nước, bao gồm các vấn đề phát triển bền vững và quản lý môi trường lưu vực; xác định các định hướng phát triển, quản lý lưu vực và thống nhất các thỏa thuận/kế hoạch triển khai Chiến lược phát triển lưu vực sông Mekong giai đoạn 2021-2030.
Dự kiến Hội nghị cấp cao lần thứ 4 sẽ thông qua Tuyên bố chung Vientiane, trong đó đánh giá những thành tựu các nước trong lưu vực đạt được trong những năm qua, phân tích, đánh giá các thách thức và cơ hội đối với vai trò và hợp tác tại MRC, đồng thời đề ra các định hướng hợp tác cho những năm tiếp theo.
Trong gần 30 năm qua kể từ khi thành lập, được sự hỗ trợ và đóng góp tài chính tích cực của các quốc gia thành viên, các quốc gia tài trợ và tổ chức quốc tế, Uỷ hội đã đạt được nhiều kết quả tích cực góp phần thúc đẩy sự phát triển ở các quốc gia thành viên, tăng cường hợp tác lưu vực trong nhiều lĩnh vực như xây dựng các quy chế sử dụng nước, quản lý môi trường, liên kết giao thông thuỷ, sản xuất nông nghiệp, thủy sản và mở rộng hợp tác với hai nước thượng lưu là Trung Quốc, Myanmar (hiện là Đối tác đối thoại của Ủy hội), các đối tác phát triển/cộng đồng tài trợ và nhiều đối tác quốc tế khác.
Chính vì vậy, hoạt động của Ủy hội không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường của các quốc gia thành viên mà còn trong tăng cường quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia trong lưu vực.
Việt Nam đã xác định mục tiêu hợp tác Mekong, thực hiện hiệu quả Hiệp định Mekong 1995 bao gồm: Đảm bảo sử dụng và quản lý hiệu quả và bền vững nguồn tài nguyên nước sông Mekong vùng ĐBSCL của Việt Nam nói riêng và toàn lưu vực sông Mekong nói chung; hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của các hoạt động phát triển ở thượng nguồn, bao gồm cả các công trình thủy điện trên dòng chính sông Mekong về phía hạ du và tới các vùng lãnh thổ của Việt Nam; đồng thời duy trì ổn định và tăng cường quan hệ hợp tác với các quốc gia trong lưu vực sông Mekong, thúc đẩy hợp tác phát triển trong khu vực.
Với vị thế là quốc gia cuối nguồn và phải chịu các tác động ngày càng nghiêm trọng do các hoạt động phát triển ở thượng nguồn trong bối cảnh biến đổi khí hậu, Việt Nam đã xác định hợp tác trong Ủy hội sông Mekong quốc tế là một cơ chế hợp tác vùng có cơ sở pháp lý chặt chẽ nhất, có cơ cấu thể chế có truyền thống lâu dài và ổn định, và quan trọng hơn cả là cơ chế hợp tác về tài nguyên nước lưu vực sông Mekong đầy đủ duy nhất trong khu vực.
Cho tới nay, Việt Nam đã thể hiện cam kết chính trị rất cao, thể hiện vai trò của một quốc gia thành viên hết sức tích cực và xây dựng trong tham gia các hoạt động của Ủy hội sông Mekong quốc tế trên tất cả các cấp và diễn đàn, từ cấp cao tới cấp bộ trưởng, Ủy ban Liên hợp, nhóm công tác… trên tất cả các lĩnh vực hợp tác thông qua các sáng kiến, vận động, thúc đẩy và các đóng góp vượt bậc về tài chính, thông tin số liệu, chuyên gia…
Việt Nam cũng là quốc gia thành viên đi đầu trong nỗ lực nâng cao hình ảnh, vị thế và tầm quan trọng của hợp tác trong Ủy hội sông Mekong quốc tế trên các diễn đàn quốc tế và đa phương; luôn đề cao tinh thần đoàn kết hợp tác giữa các quốc gia sông Mekong, đóng góp vào ổn định và hợp tác khu vực; quan tâm lợi ích chính đáng của tất cả các quốc gia sông Mekong; thúc đẩy hợp tác với các quốc gia thượng nguồn là Trung Quốc và Myanma trên cơ sở thận trọng khôn khéo, vận dụng các nguyên tắc hợp tác cơ bản đã được các bên tham gia chấp thuận như đồng thuận nhất trí, tôn trọng chủ quyền quốc gia, tuân thủ luật pháp quốc tế.
Về đóng góp cụ thể, Việt Nam đã tham gia trong xây dựng và triển khai các văn bản pháp lý, các chiến lược của Ủy hội như: Chiến lược phát triển lưu vực các giai đoạn, Chiến lược quản lý và giảm nhẹ lũ, Chiến lược thủy sản, Chiến lược phát triển thủy điện… xây dựng và hoàn thiện Bộ thủ tục giám sát sử dụng nước và các hướng dẫn kỹ thuật…
Việt Nam tích cực đóng góp chia sẻ thông tin, số liệu: phục vụ các hoạt động của các chương trình, dự án, các nghiên cứu của Ban Thư ký Ủy hội sông Mekong quốc tế, tuân thủ thực hiện theo đúng các chỉ dẫn kỹ thuật của thủ tục trao đổi và chia sẻ thông tin số liệu của Ủy hội, đồng thời các quy định trong nước về an ninh, bảo mật đối với chia sẻ thông tin, số liệu
Việt Nam cũng đóng góp chuyên gia và kỹ thuật cho Ban Thư ký Ủy hội, cử các chuyên gia trong nước giỏi, có nhiều kinh nghiệm đến làm việc tại Ban Thư ký nhằm xây dựng nguồn cán bộ ven sông cho Ban Thư ký và triển khai quá trình "ven sông hóa" của Ban Thư ký Ủy hội sông Mekong quốc tế.
Đồng thời, tích cực và chủ động tham gia quá trình tham vấn đối với các hoạt động của Ủy hội sông Mekong quốc tế, đặc biệt là tham vấn trước đối với các đề xuất dự án thủy điện dòng chính sông Mekong, các thông báo sử dụng nước của các quốc gia thành viên Ủy hội.
Việt Nam tích cực tham gia các nghiên cứu của Ủy hội sông Mekong quốc tế, như các nghiên cứu về quản lý lũ xuyên biên giới, các vấn đề pháp lý trong quản lý lũ, các nghiên cứu về phát triển thủy điện bền vững, đặc biệt là nghiên cứu của Ủy hội về phát triển bền vững lưu vực sông Mekong, bao gồm đánh giá tác động của thủy điện dòng chính.
Các hoạt động của Việt Nam cũng nhằm tăng cường vai trò Ủy hội sông Mekong quốc tế, đẩy mạnh hợp tác của Ủy hội với các cơ chế hợp tác đa phương khác trong khu vực, thúc đẩy hợp tác với các đối tác phát triển, góp phần nâng cao vai trò và vị thế của Ủy hội sông Mekong quốc tế trên trường quốc tế và trong khu vực.
Ủy hội sông Mekong quốc tế được thành lập theo Hiệp định hợp tác Phát triển bền vững lưu vực sông Mekong được ký ngày 5/4/1995 giữa Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Theo Hiệp định, mục tiêu chính của Ủy hội là thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia thành viên trong sử dụng, phát triển và bảo vệ tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan một cách bền vững trên lưu vực sông Mekong. Tiền thân của Ủy hội là Ủy ban Mekong được thành lập từ năm 1957 (gồm 4 quốc gia ở hạ lưu vực sông Mekong) với sự hỗ trợ của Ủy ban kinh tế-xã hội của LHQ ở châu Á-Thái Bình Dương (UN ESCAP) và một số nước khác nhằm thúc đẩy phát triển các nguồn tài nguyên một cách công bằng và hợp lý giữa các quốc gia đồng thời tăng cường bảo vệ môi trường, sinh thái trong lưu vực sông Mekong. Ủy hội sông Mekong quốc tế đã thống nhất tổ chức Hội nghị Cấp cao bốn năm một lần luân phiên tại các quốc gia thành viên vào ngày 5/4 là ngày ký Hiệp định Hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Mekong. Cho đến nay, có 3 kỳ Hội nghị Cấp cao Ủy hội sông Mekong quốc tế đã được tổ chức. Trong các khuôn khổ hợp tác hiện nay về lưu vực sông Mekong, Ủy hội là tổ chức duy nhất có chức năng xây dựng các khuôn khổ pháp lý, trong đó có những quy chế ràng buộc đối với các quốc gia thành viên về chia sẻ công bằng, hợp lý tài nguyên nước và cùng nhau bảo vệ môi trường sinh thái lưu vực sông bên cạnh chức năng thúc đẩy các dự án phát triển chung. |