Thanh tra, kiểm tra điện tử góp phần nâng cao hiệu quả quản lý ngành BHXH
(ĐCSVN) – Việc áp dụng phương thức điện tử trong hoạt động thanh tra, kiểm tra (TTKT) giúp công tác TTKT được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm. Đồng thời qua phân tích dữ liệu cũng có thể phát hiện kẽ hở trong quản lý hoặc các hạn chế trong thực hiện các quy trình nghiệp vụ của cơ quan BHXH.
Toàn cảnh cuộc họp cung cấp thông tin định kỳ về chính sách BHXH, BHYT quý I của BHXH Việt Nam. Ảnh: TL |
Tại cuộc họp cung cấp thông tin định kỳ về chính sách BHXH, BHYT quý I của BHXH Việt Nam chiều ngày 28/4, đại diện BHXH Việt Nam cho biết: Nhằm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong hoạt động thanh tra kiểm tra (TTKT), kết hợp giữa phương pháp TTKT truyền thống và phương pháp “điện tử”, công tác TTKT của ngành BHXH trong những năm qua đã phát huy hiệu quả, tạo chuyển biến rõ rệt trong công tác thu, phát triển đối tượng, giảm nợ đọng, nhất là giảm thiểu tình trạng lạm dụng, trục lợi quỹ BHXH, BHYT.
Hiệu quả từ thanh tra, kiểm tra theo hình thức điện tử
Việc áp dụng phương thức điện tử trong hoạt động thanh tra, kiểm tra giúp công tác thanh tra, kiểm tra (TTKT) được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm; tổ chức rà soát, phân tích dữ liệu ở giai đoạn trước khi làm việc trực tiếp với đối tượng TTKT đã giúp đoàn TTKT đánh giá, khoanh vùng, lựa chọn mẫu cần kiểm tra thực tế; nâng cao khả năng phát hiện, nhận diện dấu hiệu sai sót, vi phạm một cách toàn diện giúp nâng cao chất lượng và kết quả TTKT. Đồng thời qua phân tích dữ liệu cũng có thể phát hiện kẽ hở trong quản lý hoặc các hạn chế trong thực hiện các quy trình nghiệp vụ của cơ quan BHXH.
Theo báo cáo từ năm 2020 đến nay, trong bối cảnh dịch bệnh COVID -19 diễn biến hết sức phức tạp, tác động tới mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, ảnh hưởng đến hoạt động TTKT, BHXH Việt Nam đã thay đổi cách thức tổ chức triển khai các Đoàn TTKT, tiếp tục tăng cường cải tiến phương pháp TTKT, tăng tỷ trọng thời gian tự rà soát, phân tích dữ liệu và cắt giảm tối thiểu thời gian làm việc trực tiếp với đối tượng TTKT là doanh nghiệp, cơ sở KCB.
Kết quả năm 2020 và 2021, ngành BHXH đã chủ trì và phối hợp thực hiện TTKT tại 24.104 đơn vị (thanh tra chuyên ngành (TTCN) 11.739 đơn vị, kiểm tra 8.139 đơn vị sử dụng lao động (SDLĐ), 709 cơ sở KCB BHYT; TTKT liên ngành 3.517 đơn vị) phát hiện gần 77.221 trường hợp sai phạm về đối tượng, mức đóng với số tiền truy thu gần 276 tỷ đồng; các đơn vị khắc phục ngay số tiền 1.523 tỷ đồng trên tổng số 4.508 tỷ đồng nợ BHXH, BHTN, BHYT; yêu cầu thu hồi về quỹ BHXH gần 14,8 tỷ đồng, về quỹ BHTN 3,3 tỷ đồng, về quỹ BHYT 142,2 tỷ đồng.
Năm 2021 do chịu ảnh hưởng của dịch COVID-19, BHXH Việt Nam đã rà soát trên cơ sở dữ liệu Ngành đang quản lý của 05 BHXH tỉnh, thành phố (Thanh Hóa, Hải Phòng, Kiên Giang, Ninh Bình, Nam Định) với 22 đơn vị có dấu hiệu vi phạm về đóng BHXH, BHYT, BTTN. Kết quả khắc phục số nợ của các đơn vị tính đến ngày 31/12/2021 là 28/42 tỉ đồng, đạt gần 70%.
Với khả năng rà soát, phân tích dữ liệu lớn, việc ứng dụng CNTT đã giúp các đoàn TTKT kiểm tra được 100% hồ sơ nghiệp vụ (kể cả đối với các doanh nghiệp có hàng ngàn lao động hoặc cơ sở y tế có hàng triệu lượt KCB BHYT), so với phương pháp TTKT truyền thống trước đây chỉ kiểm tra xác suất được một số hồ sơ nhất định do bị giới hạn về thời gian.
Theo BHXH Việt Nam, việc ứng dụng CNTT giúp phát hiện nhiều sai sót, vi phạm mà trước đây rất khó phát hiện hoặc không thể phát hiện bằng phương pháp truyền thống như: dùng thẻ BHYT cùng lúc khám bệnh ngoại trú ở nhiều cơ sở y tế; sử dụng 01 thẻ BHYT thanh toán chi phí KCB với tần suất lớn (có trường hợp thanh toán đến 27 lần/tháng); thanh toán BHYT sau khi người có thẻ đã chết; cơ sở y tế thu trùng của người bệnh BHYT khoản chi phí đã được cơ quan BHXH thanh toán; nhân viên y tế hành nghề trùng thời gian tại nhiều cơ sở KCB.
Đặc biệt, giúp các Đoàn TTKT tăng năng suất công việc, nâng cao chất lượng, kết quả TTKT nhưng đã rút ngắn thời gian đáng kể, trong đó có rút ngắn thời gian làm việc của Đoàn TTKT và rút ngắn thời gian làm việc trực tiếp tại đơn vị, hạn chế tối thiểu thời gian đối tượng TTKT phải dành để làm việc với Đoàn, đảm bảo nguyên tắc không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của đối tượng được TTKT.
Việc ứng dụng CNTT và áp dụng linh hoạt cách thức tổ chức tiến hành trong hoạt động TTKT đã giảm thiểu việc thanh tra trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị, không vi phạm quy định về phòng, chống dịch bệnh COVID-19 nhưng vẫn đem lại hiệu quả; kịp thời phát hiện, ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật về BHXH, BHTN, BHYT.
Tăng cường giải pháp công nghệ trong TTKT
Để tiếp tục nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý rủi ro, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ cũng như răn đe, phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật BHXH, BHYT, Ngành đã và đang xây dựng phần mềm “Dấu hiệu nhận diện hành vi vi phạm trong lĩnh vực BHXH, BHYT”.
Phần mềm được kết nối với các phền mềm, công cụ quản lý nghiệp vụ khác của ngành BHXH Việt Nam, thường xuyên tự động cập nhật, phân tích dữ liệu để đưa ra các dấu hiệu nhận diện vi phạm pháp luật BHXH, BHTN, BHYT thuộc 03 lĩnh vực nghiệp vụ (thu BHXH, BHTN, BHYT; cấp sổ BHXH, thẻ BHYT; giải quyết, thanh toán các chế độ BHXH, BHTN, BHYT) của 05 nhóm đối tượng (cá nhân, đơn vị trong ngành BHXH Việt Nam; cơ sở KCB; đơn vị SDLĐ; đại lý thu, đại diện chi trả; NLĐ, người tham gia và hưởng chế độ). Việc xây dựng phần mềm đảm bảo tính bảo mật, an toàn thông tin.
Trong thời gian tới, Ngành sẽ tiếp tục hoàn thiện cơ sở dữ liệu nghiệp vụ của theo hướng dữ liệu tập trung toàn quốc và có sự đồng bộ, liên kết giữa các cơ sở dữ liệu thu, chi, hưởng chế độ để đáp ứng được yêu cầu về thời gian, hiệu suất khai thác. Đảm bảo cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ như: đường truyền Internet, thiết bị mạng, máy tính, thiết bị lưu trữ và các phần mềm, giải pháp an ninh, bảo mật… để việc ứng dụng CNTT trong hoạt động TTKT được kịp thời, an toàn, hiệu quả. Hoàn thiện Phần mềm “Dấu hiệu nhận diện hành vi vi phạm trong lĩnh vực BHXH, BHYT”.
Bên cạnh đó, Ngành sẽ sửa đổi pháp luật thanh tra cho phù hợp với tình hình mới về chuyển đổi số, cụ thể xác định giá trị pháp lý “dữ liệu” của các đơn vị như là một báo cáo quyết toán và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thẩm quyền, trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ là dữ liệu trong hoạt động TTKT.
BHXH Việt Nam sẽ tiếp tục nghiên cứu tăng cường ứng dụng các giải pháp công nghệ trong thực hiện nhiệm vụ TTKT để cải tiến phương pháp, nâng cao hiệu quả, rút ngắn thời gian làm việc song vẫn đảm bảo tuân thủ đúng quy trình quy định của pháp luật về thanh tra, xử lý vi phạm hành chính. Đặc biệt, với việc xây dựng thành công hệ thống tự động cảnh báo rủi ro, nhận diện hành vi vi phạm sẽ kịp thời ngăn chặn hoặc phát hiện sai phạm, góp phần giảm tải khối lượng công việc, nâng cao hiệu quả cho hoạt động TTKT và hiệu quả quản lý của ngành BHXH Việt Nam./.