Logo báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam

Sản xuất xanh – xu hướng xuất khẩu bền vững

Thứ Tư, 20/09/2023 16:41 (GMT+0)
zalo-icon
viber-icon

(ĐCSVN) - Để xuất khẩu bền vững buộc doanh nghiệp Việt Nam phải đổi sang phát triển sản xuất xanh, ứng dụng công nghệ tiêu chuẩn cao để đảm bảo cung cấp sản phẩm xanh, sạch, đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật và môi trường của EU và tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng bền vững của thị trường này.

Tọa đàm “Chuyển đổi xanh - yêu cầu cấp thiết của doanh nghiệp xuất khẩu sang EU” 

Tại Tọa đàm “Chuyển đổi xanh - yêu cầu cấp thiết của doanh nghiệp xuất khẩu sang EU”, do Tạp chí Công Thương tổ chức ngày 19/9 tại Hà Nội, các diễn giả cho biết: Từ năm thứ 3 trong lộ trình thực thi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam- EU (EVFTA), những lợi thế và kết quả xuất khẩu đã phần nào bị ảnh hưởng bởi EU đang áp dụng nhiều hơn tiêu chuẩn cao, gia tăng yêu cầu về chất lượng đặc biệt trong lĩnh vực môi trường, phát triển bền vững với hàng hóa nhập khẩu gọi chung là “tiêu chuẩn xanh”.

Cụ thể, ông Ngô Chung Khanh - Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương) cho hay, phát triển bền vững là một chương nằm trong Hiệp định EVFTA và đề cập tới hai lĩnh vực là môi trường và lao động. Về môi trường, Hiệp định EVFTA đề cập đến bốn khía cạnh chính gồm biến đổi khí hậu; đa dạng sinh học; quản lý rừng bền vững và thương mại lâm sản; quản lý phát triển, bảo tồn các sinh vật biển và nuôi trồng thủy sản.

Cũng theo ông Ngô Chung Khanh, đối với cơ chế thực thi, Hiệp định EVFTA không giống hiệp định thương mại thông thường mà có yếu tố rất quan trọng về phát triển bền vững nên doanh nghiệp muốn xuất khẩu sang EU cần quan tâm tới những vấn đề mà hiệp định này đã nêu. Hơn nữa, EVFTA cũng là hiệp định đầu tiên có cơ chế thực thi khá rõ ràng.

Ngoài ra, EU sẽ có những quy định về môi trường hay về vấn đề lao động. Chẳng hạn như cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), hay những vấn đề liên quan đến chống phá rừng và sắp tới là đạo luật chuỗi cung ứng. Theo đó, các quy định thông thường không đánh vào nhà xuất khẩu mà chủ yếu là vào nhà nhập khẩu, tức là chính đánh vào các chủ thể của EU. Đặc biệt, các chủ thể này phải có trách nhiệm quản lý chuỗi cung ứng của mình để đảm bảo yêu cầu do EU đặt ra.

Ông Ngô Chung Khanh cũng lưu ý doanh nghiệp, hiện nay xu hướng người tiêu dùng EU càng ngày càng quan tâm đến việc làm ra sản phẩm có ảnh hưởng đến môi trường và bền vững hay không, đối xử người lao động như thế nào…

Bà Nguyễn Hồng Loan, Chuyên gia Dự án Hỗ trợ kỹ thuật về đánh giá tác động của CBAM chia sẻ thêm, EU vốn là thị trường có tiêu chuẩn liên quan đến môi trường rất cao và quy định của EU với sản phẩm trong nước liên quan đến môi trường đã được quy định từ rất sớm, từ những năm 1987.

Tuy nhiên, gần đây, các quy định này được quy định chặt chẽ hơn, tăng tốc hơn, bắt đầu từ việc EU phê duyệt Thỏa thuận xanh với mục tiêu giảm 55% phát thải khí nhà kính vào năm 2030 so với năm 1990 và hướng tới mục tiêu rất tham vọng là đạt được phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Cùng với quy định này, EU còn đưa ra các đề xuất khác nhau, toàn diện trong tất cả các lĩnh vực để đảm bảo đạt được mục tiêu bao trùm tất cả các lĩnh vực từ nông, lâm nghiệp, thủy sản, giao thông vận tải, hàng không. Do đó, khi áp dụng với hàng hóa EU sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ chuỗi cung ứng với sản phẩm xuất khẩu sang EU như của Việt Nam.

Đặc biệt, quy định gần đây được phê duyệt vào tháng 5/2003 và chính thức có hiệu lực từ ngày mùng 1/10 năm nay là CBAM của EU đã đưa định giá carbon của EU để áp với các sản phẩm xuất khẩu. Thế nhưng, EU cũng đưa ra lộ trình để doanh nghiệp có thời gian chuyển tiếp từ nay đến năm 2026 và tỉ lệ phải chi trả chứng chỉ CBAM cũng sẽ tăng dần từ năm 2026 đến năm 2034.

Bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập - Liên đoàn Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) nhấn mạnh: Những tiêu chuẩn xanh hay bền vững của EU sẽ bao trùm tất cả những sản phẩm được xem là thế mạnh của Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường EU như: nông thủy sản, đồ gỗ, dệt may, da giày… Vì vậy, số lượng, phạm vi doanh nghiệp và hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam bị ảnh hưởng rất lớn.

Đây cũng là thách thức với doanh nghiệp trong nước bởi tiêu chuẩn này không phải đặt ra, sau đó tuân thủ là xong mà đây là một chuỗi những thay đổi và xanh dần, bền vững dần. Điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp muốn tuân thủ phải thường xuyên theo dõi mới đảm bảo được. Cuối cùng, việc thích ứng với những tiêu chuẩn này đòi hỏi nỗ lực, nhận thức và chi phí rất lớn với doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa.

 

Tin, ảnh: A.N

có thể bạn quan tâm

Ý KIẾN BÌNH LUẬN