Logo báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam

Rút ngắn khoảng cách tự chủ đại học trên văn bản với thực thi

Thứ Sáu, 27/11/2020 17:17 (GMT+0)
zalo-icon
viber-icon

(ĐCSVN) – Dù tự chủ đại học đã được đề cập đến từ sớm trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam song trên thực tế, vẫn luôn tồn tại một khoảng cách giữa tự chủ trên văn bản với thực tiễn thi hành.

Ngày 27/11, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và một số cơ sở giáo dục đại học tổ chức Hội thảo giáo dục Việt Nam 2020 “Tự chủ trong giáo dục đại học – từ chính sách đến thực tiễn”.

Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng đến dự và phát biểu khai mạc hội thảo. Tham dự hội thảo còn có Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam; Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội Phan Thanh Bình, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ, đại diện các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội đang công tác trong lĩnh vực giáo dục đào tạo (GDĐH); đại diện các bộ, ngành Trung ương; các tổ chức quốc tế; các nhà quản lý cơ sở GDĐH; các chuyên gia, nhà khoa học.

Nhận thức chưa thống nhất sinh ra mâu thuẫn và rào cản

Theo Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Hoàng Minh Sơn, tự chủ đại học là xu hướng tất yếu trên thế giới, nhưng quan niệm và mức độ triển khai còn khác nhau. Tự chủ đại học không còn mới ở Việt Nam, nhưng vẫn còn quan niệm chưa đúng bản chất (vẫn thường được hiểu gắn với tự bảo đảm kinh phí).

Do đó, để thực hiện tự chủ cần đổi mới nhận thức. Tuy nhiên, đổi mới nhận thức là một quá trình, cần hành động để thay đổi nhận thức chứ không thể chờ thay đổi nhận thức rồi mới hành động.

Trao đổi về bản chất của tự chủ đại học, Thứ trưởng chia sẻ, đó là vấn đề tự quyết và chịu trách nhiệm của trường đại học về những hoạt động của mình. Ngoài ra, trường đại học có hệ thống quản trị nội bộ để phân quyền và trách nhiệm, đảm bảo quá trình ra quyết định và thực hiện trách nhiệm giải trình tốt hơn…

Với sự tham gia của hơn 250 đại biểu, vấn đề tự chủ trong giáo dục đại học được nhìn nhận ở nhiều khía cạnh (Ảnh: KT)

Từ góc nhìn của cơ quan lập pháp, giám sát, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội  Phạm Tất Thắng khẳng định, mặc dù tự chủ đại học cũng đã được đề cập đến từ sớm trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam song trên thực tế, vẫn luôn tồn tại một khoảng cách giữa tự chủ trên văn bản với thực tiễn thi hành.

Bất cập đầu tiên trong triển khai được Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội chỉ ra là quan điểm, tư duy về tự chủ đại học còn chưa có sự thống nhất. Ông phân tích, nhiều cơ sở giáo dục đại học cho rằng tự chủ đại học là bản chất, là thuộc tính và là quyền đương nhiên mà cơ sở giáo dục đại học phải được hưởng. Theo đó, nhà trường cần phải được tự chủ hoàn toàn trong việc quyết định sự vận hành của đơn vị và cần xóa bỏ hoàn toàn cơ chế chủ quản đối với các trường đại học. Ngược lại, cũng không ít đơn vị thấy rằng tự chủ không có nghĩa là thoát khỏi chủ sở hữu, theo đó, tự chủ không phải là xóa bỏ “chủ quản”, buông lỏng quản lý mà quan trọng là thay đổi hình thức quản lý, thay đổi cách thực thi quyền sở hữu của cơ quan nhà nước thông qua đại diện chủ sở hữu là thiết chế Hội đồng trường cũng như tăng cường sự minh bạch thông qua chế độ báo cáo, thanh tra cũng như chịu sự giám sát của xã hội.

Về phía cơ quan quản lý nhà nước, theo ông, vẫn nặng về cách tiếp cận từ góc độ tài chính thông qua mức độ tự bảo đảm kinh phí hoạt động mà chưa có căn cứ, nguyên tắc chung để trao quyền tự chủ cũng như trao tự chủ ở mức độ khác nhau phù hợp với năng lực của từng đơn vị liên quan đến công tác tổ chức, nhân sự, quản trị, tiềm lực và kinh nghiệm về đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ cũng như các điều kiện cần thiết khác.

“Nhận thức về tự chủ khác nhau, đặc biệt nhận thức khác nhau về chủ sở hữu; mối quan hệ các thiết chế trong nhà trường... đã sinh ra những mâu thuẫn và rào cản hạn chế tự chủ. Nếu không làm rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý trực tiếp, nếu Hội đồng trường không được giao thực quyền, chế độ minh bạch thông tin chưa được thiết lập, thì hiệu quả quản trị nhà trường, chất lượng đại học và công bằng xã hội khó có thể được cải thiện, thậm chí công sản đã đầu tư vào các đại học công lập có nguy cơ bị khai thác vì lợi ích riêng” – ông Phạm Tất Thắng nói.

Trong khi đó, theo bà Vũ Thị Lan Anh, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội, trên thực tế, do nhận thức của các tổ chức, cá nhân về tự chủ đại học chưa đầy đủ nên một số quy định chưa được thực thi một cách hiệu quả. Trước hết, bản thân nhiều cơ sở GDĐH chưa nhận thức đầy đủ về tự chủ đại học và các quyền năng mà Luật đã trao cho mình để thực hiện tự chủ.

“Có lẽ do quá quen thuộc với việc được “cầm tay chỉ việc” hướng dẫn chi tiết, ám ảnh bởi cơ chế xin-cho và có lẽ cả lo sợ bị làm sai nên phải chờ hướng dẫn cụ thể nên giờ đây, khi các cơ hội được tự chủ, tự quyết định và tự nắm vận mệnh của chính mình đang mở ra thì một số cơ sở GDĐH vẫn còn dè dặt và chờ đợi sự hướng dẫn từ phía cơ quan quản lý Nhà nước” – Bà Vũ Thị Lan Anh nói.

Không chỉ tự thân các cơ sở GDĐH cần hiểu về quyền tự chủ của mình, bà cho rằng, các cơ quan quản lý có thẩm quyền cũng cần xác định rõ giới hạn của quản lý nhà nước và quyền tự chủ của các cơ sở GDĐH để thực hiện đúng, tránh can thiệp trực tiếp vào tổ chức và hoạt động của cơ sở GDĐH, đặc biệt trong lĩnh vực tổ chức cán bộ, sử dụng cơ sở vật chất, hợp tác quốc tế (trong đào tạo, nghiên cứu khoa học và mời giảng viên nước ngoài). “Đây là 3 lĩnh vực mà các cơ sở GDĐH trực thuộc các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh hay gặp khó khăn nhất” – Bà Lan Anh nhấn mạnh.

Đặc biệt, theo bà Vũ Thị Lan Anh, các cơ sở GDĐH công lập thường được coi là một đơn vị tương đương cấp Vụ thuộc cơ quan chủ quản và phải tuân thủ các quy định của cơ quan chủ quản. Trong một số trường hợp quy định của cơ quan chủ quản chặt chẽ hơn, yêu cầu cao hơn so với quy định của Luật khiến việc thực thi Luật trở nên bất khả thi. Chính vì vậy, để đảm bảo phát huy quyền tự chủ của các cơ sở GDĐH, các cơ quan chủ quản cần nhận thức đầy đủ về quyền và trách nhiệm của mình đối với các cơ sở GDĐH, đảm bảo quản lý theo pháp luật, hạn chế việc can thiệp sâu của các cơ quan chủ quản vào tổ chức và hoạt động của cơ sở GDĐH ngoài phạm vi thẩm quyền của mình.

“Thực trạng đó đòi hỏi cần tiếp tục tuyên truyền, phổ biến sâu rộng về tự chủ đại học cho các đối tượng có liên quan từ cơ quan chủ quản đến các cơ sở GDĐH để thống nhất trong nhận thức và hành động theo đúng tinh thần của Luật GDĐH” – bà Vũ Thị Lan Anh kiến nghị.

Tự chủ đại học không có nghĩa là buông lỏng quản lý nhà nước

Phát biểu tại Hội thảo, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho biết, giáo dục đại học Việt Nam dù đã có bước tiến dài, nhưng chưa thể hài lòng được. Với tự chủ đại học, theo Phó Thủ tướng, chúng ta mới thực hiện được một bước và còn một quá trình rất dài.

Nhắc lại những phát biểu trong phiên chất vấn và trả lời chất vấn tại Kỳ họp Quốc hội thứ 10 vừa qua, Phó Thủ tướng một lần nữa khẳng định lại có 5 điểm có tính nguyên tắc toàn thế giới và một điểm cũng có tính nguyên tắc nhưng cho Việt Nam và một số nước có hoàn cảnh tương tự.

Đầu tiên, tự chủ đại học phải đi từ chuyên môn, phải xây dựng một mô hình quản trị tiên tiến, để từ đó lan tỏa ra toàn xã hội, nâng cao tính dân chủ, tính khoa học.

Tiếp đó, tự chủ thì luôn luôn phải gắn liền với giải trình. Không phải giải trình với cơ quan nhà nước mà giải trình với toàn dân, đầu tiên là học sinh, sinh viên, cán bộ, nhân viên trong nhà trường đến phụ huynh, rồi toàn xã hội.

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu tại hội thảo (Ảnh: KT) 

Phó Thủ tướng cũng nhấn mạnh, tự chủ đại học không có nghĩa là Nhà nước không đầu tư tiền nữa. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng xác định rất rõ tự chủ đại học không có nghĩa là buông lỏng quản lý nhà nước mà phải quản lý theo pháp luật, không chỉ pháp luật về giáo dục mà pháp luật nói chung về tất cả các mặt. Tự chủ nhưng không được làm giảm cơ hội tiếp cận giáo dục đại học của các đối tượng như con người nghèo, diện chính sách.

Phó Thủ tướng cũng nêu rõ, vấn đề cần chuyển đổi rất mạnh là vai trò chủ sở hữu. Theo đó, phải dịch chuyển dần một phần quyền lực từ cơ quan chủ quản là chính sang Hội đồng trường; từ cơ quan quản lý nhà nước- Bộ GD&ĐT sang Hội đồng trường; từ Hiệu trưởng, Ban Giám hiệu sang Hội đồng trường.

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhắc lại, có 2 việc rất quan trọng để thực hiện tự chủ theo đúng hướng và đúng quy luật.

Thứ nhất, phải có Hội đồng trường theo đúng quy định của pháp luật. Hội đồng trường với tư cách là một cơ quan thực quyền, chứ không phải là hội đồng có tính hình thức.

Thứ hai, các trường đều phải xây dựng một bộ quy tắc đầy đủ, chi tiết theo quy định của pháp luật và phải công khai cho toàn dân biết và giám sát./.

Kim Thanh

có thể bạn quan tâm

Ý KIẾN BÌNH LUẬN