Logo báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam

Phát huy vai trò của nhân sĩ, trí thức, chuyên gia trong góp ý dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)

Thứ Tư, 08/03/2023 16:24 (GMT+0)
zalo-icon
viber-icon
00:00 / 00:00

(ĐCSVN) - Các đại biểu tập trung thảo luận đối với một số nội dung cụ thể như: Quyền và trách nhiệm của Nhà nước, công dân đối với đất đai; quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hoạt động giám sát, phản biện xã hội đối với công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất…

 

Quang cảnh Hội nghị. 

Ngày 8/3, tại tỉnh Phú Thọ, Ủy ban Trung ương (UBTƯ) Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam đã tổ chức Hội nghị lấy ý kiến vào dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) của các nhân sĩ, trí thức, luật gia, người tiêu biểu các dân tộc thiểu số, chức sắc các tôn giáo là Ủy viên UBTƯ MTTQ Việt Nam, các chuyên gia, nhà khoa học một số tỉnh khu vực phía Bắc.

Phát biểu khai mạc Hội nghị, Phó Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam Trương Thị Ngọc Ánh cho biết, Luật Đất đai năm 2013 đã thể chế chủ trương, quan điểm của Đảng và các quy định Hiến pháp năm 2013 về đất đai, tạo hành lang pháp lý trong công tác tổ chức, quản lý, sử dụng đất. Tuy nhiên, qua thực hiện các quy định của Luật Đất đai gần 10 năm qua, bên cạnh những ưu điểm thì Luật Đất đai đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. “Việc sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Đất đai, đồng thời bổ sung các chính sách mới để điều chỉnh một số nội dung phát sinh trong thực tiễn là cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên, nguồn lực đất đai, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và doanh nghiệp” - Phó Chủ tịch Trương Thị Ngọc Ánh nhấn mạnh.

Nhằm phát huy tối đa trí tuệ của đội ngũ nhân sỹ, trí thức, luật gia, người tiêu biểu các dân tộc thiểu số, chức sắc tôn giáo, các chuyên gia, nhà khoa học tham gia ý kiến vào dự thảo bảo đảm chất lượng, hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu, mục đích của Hội nghị, Phó Chủ tịch Trương Thị Ngọc Ánh đề nghị, các đại biểu tập trung thảo luận đối với một số nội dung cụ thể như: Quyền và trách nhiệm của Nhà nước, công dân đối với đất đai; quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; vai trò của MTTQ Việt Nam trong hoạt động giám sát, phản biện xã hội đối với công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, công tác thu hồi đất, phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, trường hợp cưỡng chế khi thực hiện thu hồi đất; tham vấn ý kiến của người dân về quản lý, sử dụng đất trong dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi),...

Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Trương Thị Ngọc Ánh phát biểu tại Hội nghị. 

Góp ý về hòa giải tranh chấp đất đai quy định tại Điều 224 của dự thảo Luật, Phó Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Phú Thọ Nguyễn Kiên Cường cho rằng quy định này cơ bản giữ nguyên như Điều 202 Luật Đất đai 2013. Theo đó, việc hòa giải ở cơ sở được Nhà nước “khuyến khích”, không phải thủ tục bắt buộc. Nhưng trên thực tế dễ gây hiểu nhầm là khi phát sinh tranh chấp thì chỉ thực hiện hòa giải tại khu dân cư; khi hòa giải không thành, được chuyển sang thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai; cơ quan thụ lý không chấp nhận, yêu cầu về UBND xã để thực hiện lại thủ tục hòa giải, gây mất thời gian cho công dân và các cơ quan Nhà nước. Mặt khác, khoản 3 Điều 224 của dự thảo Luật đã quy định hòa giải tại Tòa án thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự và pháp luật về hòa giải, đối thoại tại Tòa án; nhưng chưa nêu rõ hòa giải ở cơ sở thực hiện theo quy định nào. Vì vậy, ông Cường đề xuất cần gộp khoản 1 vào khoản 3 Điều 224, khi đó khoản 1 sẽ được bổ sung nội dung: “Hòa giải ở cơ sở thực hiện theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở; Hòa giải tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự và pháp luật về hòa giải, đối thoại tại Tòa án”.

Góp ý vào Điều 78 Dự thảo Luật quy định về thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia công cộng, Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh Bắc Giang Diêm Hồng Linh cho rằng, Ban soạn thảo chưa làm rõ đối tượng thụ hưởng, ngân sách đầu tư và quản lý lợi nhuận từ các dự án, bởi vậy cần bổ sung rõ: Đối tượng thụ hưởng phải là nhân dân, ngân sách đầu tư là của Nhà nước và lợi nhuận từ các dự án phải do Nhà nước thu để phục vụ lợi ích quốc gia, công cộng. Các loại đất Nhà nước thu hồi để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng dự thảo Luật đã nêu cụ thể.

Nhắc tới điểm d, khoản 2, Điều 78 quy định về dự án xây dựng cơ sở tôn giáo, bà Linh đề nghị cần định nghĩa cụ thể việc thu hồi đất phục vụ cho dự án xây dựng cơ sở tôn giáo để khắc phục hiện tượng doanh nghiệp lợi dụng tôn giáo để tổ chức hoạt động kinh doanh. Trong các dự án cơ sở tôn giáo, cần làm rõ chỗ nào là đất xây dựng cơ sở tôn giáo phục vụ cho hoạt động của tổ chức tôn giáo hợp pháp được Nhà nước công nhận thì giao đất không thu tiền, còn phần đất để xây dựng cơ sở kinh doanh, dịch vụ thì phải nộp tiền cho ngân sách Nhà nước để phục vụ cho lợi ích quốc gia, công cộng.

Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh Bắc Giang Diêm Hồng Linh phát biểu tại Hội nghị.

Ở góc độ khác, Phó Chủ nhiệm Hội đồng tư vấn về Dân chủ và Pháp luật UBTƯ MTTQ Việt Nam Nguyễn Văn Phúc cho rằng, phải thể chế hóa nội dung Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và cụ thể hóa nội dung của Hiến pháp liên quan đến đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số. Theo đó, tại khoản 3, Điều 17 nói về trách nhiệm của Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số có quy định: “Thủ tướng Chính phủ ban hành Chính sách khung về hỗ trợ đất đai đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số”. Nội dung này của dự thảo không phù hợp với Hiến pháp, đất đai của đồng bào dân tộc thiểu số phải do Quốc hội quyết định.

Cũng theo ông Nguyễn Văn Phúc, dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) cần quy định một mục riêng về quyền sử dụng đất đai của đồng bào dân tộc thiểu số chứ không chỉ dừng lại ở Điều 17 nói về trách nhiệm của Nhà nước. Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) phải khẳng định quyền sử dụng đất đai của đồng bào, trong đó để cập đến quyền của mỗi cá nhân trong tiếp cận nguồn đất.

“Từ thực thế cho thấy, ngoài Luật của Nhà nước còn có một hệ thống ‘luật tục’ của đồng bào dân tộc thiểu số điều chỉnh việc quản lý, sử dụng đất đai trong cộng đồng. Làm được như vậy mới bảo vệ được quyền công dân, quyền con người và sát với nội dung điều 14, Hiến pháp năm 2013 đã ban hành” - ông Phúc nêu và nhấn mạnh phải coi nội dung quyền sử dụng đất của đồng bào dân tộc thiểu số là một nội dung lớn, MTTQ Việt Nam phải cùng với Hội đồng Tư vấn về Dân tộc bảo vệ quyền lợi này của đồng bào.

Ông Đỗ Duy Thường, Ủy viên Đoàn Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam, cho rằng trong quy phạm Luật Đất đai hiện hành và các bản dự thảo sửa đổi hiện nay chưa quy định đầy đủ, rõ ràng về cơ chế tổ chức lấy ý kiến nhân dân ở cơ sở về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai ở cấp xã theo phương châm dân chủ, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình theo chủ trương của Đảng về “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng” được quy định trong Luật thực hiện dân chủ ở cơ sở mới được ban hành. Vì vậy, ông Thường kiến nghị dự thảo Luật cần quy định rõ nội dung lấy ý kiến công dân đối với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện, mà trực tiếp là cấp xã, nhất là những dự án liên quan đến quyền sử dụng đất của các hộ gia đình trong thôn, bản, tổ dân phố. Trong đó, hình thức lấy ý kiến là công khai bản đồ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tại UBND cấp xã và tại điểm dân cư ở các thôn, bản, tổ dân phố. Trong quá trình thực hiện, cơ quan có thẩm quần cần phối hợp với MTTQ ở địa phương tuyên truyền, giải thích và trả lời bằng văn bản những kiến nghị của nhân dân.

Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Phú Thọ Nguyễn Hồng Sơn phát biểu tại Hội nghị.

Về nội dung tiếp cận đất đai của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Phú Thọ Nguyễn Hồng Sơn cho biết, Điều 19 dự thảo Luật Đất đai năm 2023 có nêu: “Bảo đảm quyền tiếp cận của tổ chức, cá nhân đối với hệ thống thông tin đất đai theo quy định của pháp luật” còn chung chung, chưa minh bạch và rõ ràng, chưa thể hiện tính pháp lý của cụm từ “quyền tiếp cận thông tin của cá nhân, tổ chức”. Do đó, cần làm rõ hơn trách nhiệm cung cấp thông tin, cần đáp ứng yêu cầu được tiếp cận thông tin đất đai trực tiếp của tổ chức, cá nhân…/.

Hương Diệp

có thể bạn quan tâm

Ý KIẾN BÌNH LUẬN