Phần 2: "Những giá trị lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam*
(ĐCSVN) - Ở phần I, tác giả đã nêu những điểm nổi bật trong lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong các tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Ở phần này, tác giả đi sâu làm rõ những giá trị lý luận, trong đó đi sâu vào 2 nhóm giá trị lớn là góp phần làm sâu sắc hơn những sáng tạo trong lý luận của Đảng ta và cung cấp cơ sở lý luận cho việc hoàn thiện và phát triển hệ thống lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
1. Góp phần làm sâu sắc hơn những sáng tạo trong lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
a) Góp phần làm sâu sắc, cụ thể hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội
Tại Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó, lần đầu tiên “mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam” đã được định hình với 6 đặc trưng bản chất[1]. Qua 25 năm thực hiện đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, tại Đại hội XI (năm 2011), Đảng ta đã bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991, trong đó “mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam” được bổ sung, phát triển với 8 đặc trưng[2].
Tổng Bí thư nhấn mạnh: Mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát về chủ nghĩa xã hội Việt Nam với các đặc trưng cơ bản: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới[3].
Các đặc trưng của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam đã thể hiện quan điểm lý luận Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội, một mặt, lấy phục vụ con người làm mục đích, tức là “tất cả vì con người”; mặt khác, lấy việc phát huy sức mạnh của con người làm động lực chủ yếu để xây dựng chủ nghĩa xã hội, tức là “tất cả do con người”. Mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam đồng thời cũng thể hiện sự quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là sự tổng kết thực tiễn của Việt Nam, nhất là thực tiễn thời kỳ đổi mới. Mô hình ấy biểu hiện như một kết cấu tổng thể, ổn định tương đối, không phải là một mô hình khép kín và cứng nhắc. Nó chứa đựng khả năng mở rộng nội hàm, tiếp tục bổ sung những nội dung mới là kết quả của việc không ngừng nâng cao trình độ lý luận và tổng kết thực tiễn phong phú, đa dạng. Đó là kết quả của sự kết hợp hài hòa cái phổ biến và cái đặc thù, cái chung và cái riêng để tạo nên một mô hình có tên gọi: Chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Nó thể hiện xu hướng gắn kết hợp lý tiến trình phát triển của chủ nghĩa xã hội với sự vận động không ngừng của nhân loại đi lên phía trước, kế thừa những thành tựu tiến bộ của loài người để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Các tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú trọng để lại những giá trị lý luận sâu sắc. |
Có thể thấy, những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam xây dựng đã thể hiện những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội Việt Nam, là bản chất tốt đẹp, ưu việt riêng có của chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Đây là mô hình chủ nghĩa xã hội, như khẳng định của Tổng Bí thư, sẽ đáp ứng mục tiêu xây dựng: (1) Một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột, chà đạp lên phẩm giá con người; (2) Sự phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội; (3) Một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm; (4) Sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường; (5) Một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có[4].
Với sự phân tích sâu sắc và làm sáng tỏ những đặc trưng trong mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam của Tổng Bí thư, có thể khẳng định, chủ nghĩa xã hội không chỉ là những khát vọng của nhân dân Việt Nam, mà còn là mục tiêu, khát vọng của cả nhân loại. Nó khác hẳn về chất so với tất cả các chế độ xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm. Đây là một xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, vì con người, do con người[5]. Đó chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn và phấn đấu thực hiện. Thực tiễn đổi mới gần 40 năm qua đã chứng minh, với mô hình này, chúng ta đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Điều này cũng có nghĩa là những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng đã thể hiện được bản chất, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
b) Góp phần làm sâu sắc, cụ thể hơn lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Một là, về sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tổng Bí thư viết: “Ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam”[6].
Lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không phải là quyết định mang tính cá nhân hay thời điểm, mà là sự tổng hợp các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong nước và quốc tế, trên cơ sở nghiên cứu lý luận khoa học và tổng kết thực tiễn; đó là một quá trình lâu dài và bền bỉ, trải qua muôn vàn khó khăn, thử thách với những giai đoạn hết sức cam go đối với vận mệnh của dân tộc và cách mạng Việt Nam. Ngay trong Cương lĩnh năm 1930, Đảng ta khẳng định: Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Đặc biệt, vào những năm 90 của thế kỷ XX, khi chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu rơi vào khủng hoảng và sụp đổ, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có sự thoái trào, ở Việt Nam lúc này xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí trái chiều về vấn đề con đường phát triển của đất nước; trong đó, có những quan điểm đòi xét lại tính khoa học, tính khách quan trong sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta[7] (thực chất là họ muốn lái con đường phát triển của đất nước theo chủ nghĩa tư bản). Trước bối cảnh đó, Đảng và nhân dân ta vẫn tiếp tục kiên định, quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Qua 25 năm đổi mới, trong Cương lĩnh tại Đại hội XI, Đảng ta khẳng định: Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Tổng Bí thư nhắc lại kết luận hết sức quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc[8].
Về nguyên nhân khủng hoảng và đổ vỡ mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu, Tổng Bí thư chỉ rõ, như chúng ta đã biết, không phải là do sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lênin, không phải là do lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội như cách xuyên tạc, chống phá của một số thế lực chống cộng, cơ hội chính trị và sự hùa theo của một số người trong hàng ngũ cách mạng. Tất cả những người cộng sản chân chính trên thế giới đều thấy rõ nguyên nhân bên ngoài, bên trong của sự kiện này. Bên ngoài chính là chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch phương Tây, nhưng nguyên nhân bên trong là cốt lõi nhất thuộc về sự yếu kém của các đảng cộng sản. Sự yếu kém của các đảng cầm quyền thể hiện rất rõ ở sự vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin thiếu sáng tạo, máy móc, thậm chí sai lầm, đặc biệt là sự vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc xây dựng đảng mácxít, sự phản bội lý tưởng, mục tiêu chủ nghĩa xã hội một cách trắng trợn, sự thoái hóa, biến chất trầm trọng của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là những đảng viên là cán bộ lãnh đạo cao cấp trong Đảng.
Vì vậy, cần khẳng định rằng, sự đổ vỡ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu không đồng nghĩa với sự sụp đổ của học thuyết về chủ nghĩa xã hội khoa học, không phải là sự sụp đổ của phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới, tuyệt nhiên càng không phải lỗi tại chủ nghĩa Mác - Lênin lạc hậu hay ảo tưởng như các thế lực thù địch (Z. Brêdinxki, F. Fukuyama, G. Xôrốt) đã từng rêu rao... Sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xôviết là sự sụp đổ của một mô hình cụ thể của chủ nghĩa xã hội đã lạc hậu, không đồng nghĩa với sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội với đặc trưng là một chế độ xã hội tốt đẹp, là một mục tiêu mà nhân loại hướng tới. Hiện nay, gần 1,5 tỷ người trên hành tinh vẫn đang đi theo con đường xã hội chủ nghĩa với những thành tựu đáng trân trọng và tự hào. Dù còn nhiều khó khăn, thách thức, phức tạp, còn nhiều vấn đề tiếp tục phải nghiên cứu, thảo luận, nhưng sự phát triển của các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay, nhất là ở Trung Quốc, Việt Nam đã chứng minh rằng, chủ nghĩa xã hội vẫn là hiện thực, là thực tế, là một chế độ xã hội tốt đẹp nhất trong lịch sử của nhân loại đến ngày nay.
Ở Việt Nam, với những thành tựu đạt được về cả lý luận và thực tiễn trên tất cả các lĩnh vực qua gần 40 năm đổi mới đất nước, đồng chí Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản có cùng mức phát triển kinh tế...; xét trên nhiều phương diện, người dân Việt Nam ngày nay có các điều kiện sống tốt hơn so với bất cứ thời kỳ nào trước đây, là điều không ai có thể phủ nhận. Những tiến bộ đó đã góp phần quan trọng củng cố niềm tin của nhân dân vào công cuộc đổi mới, vào tiền đồ chủ nghĩa xã hội, vào sự lãnh đạo của Đảng ta[9]. Để khẳng định điều này, Tổng Bí thư nhắc lại quan điểm của Đảng ta tại Đại hội XIII: “Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Chúng ta đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ và toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”[10].
Hai là, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tổng Bí thư khẳng định đây là một trong những nội dung được Đảng ta nhận thức ngày càng đúng đắn, sâu sắc hơn trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới: “Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội”[11], góp phần đặc biệt quan trọng trong việc hoạch định, cụ thể hóa con đường, biện pháp đi lên chủ nghĩa xã hội, nhất là đường lối phát triển kinh tế, ngày càng phù hợp với thực tiễn của đất nước.
Đảng ta đã khắc phục được một số quan niệm đơn giản trước đây về chủ nghĩa xã hội và về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội như đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều về quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản...[12].
Đảng ta nhận thức rõ hơn về quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì: (1) Phải tạo ra sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; (2) Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, trình độ của lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; (3) Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại công cuộc xây dựng đất nước ta... Do vậy, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế - xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới; giữa các yếu tố xã hội chủ nghĩa với các yếu tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả yếu tố tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; đặc biệt là trong môi trường kinh tế thị trường, trước xu thế mở cửa, hội nhập quốc tế, thì cuộc đấu tranh lại càng gay go, gian khổ.
Ba là, về phương hướng xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Để hiện thực hóa 6 đặc trưng bản chất của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam, trong Cương lĩnh năm 1991, Đảng ta đã đề ra 7 phương hướng cơ bản[13]. Đại hội XI của Đảng (năm 2011) đã tổng kết 25 năm thực hiện đổi mới và bổ sung, phát triển Cương lĩnh chính trị của Đảng. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã bổ sung, phát triển và đưa ra 8 đặc trưng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam; cùng với đó, đề ra 8 phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, bao gồm: (1) Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; (2) Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; (3) Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; (4) Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; (5) Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; (6) Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng Mặt trận thống nhất; (7) Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; (8) Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện[14].
Có thể nói, với tư cách là người đứng đầu của Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng Bí thư đã lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân tập trung trí tuệ tổng kết lý luận và từng bước hoàn thiện, phát triển nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, phản ánh một cách toàn diện các lĩnh vực xây dựng và phát triển đất nước theo mục tiêu phát triển bền vững, không chỉ là kinh tế - xã hội - môi trường, mà còn phải chú trọng phát triển văn hóa, con người và bảo đảm sự ổn định, củng cố vững chắc chế độ chính trị với Nhà nước pháp quyền, nền dân chủ, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Do đó, phải nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy mọi tiềm lực để giữ vững quốc phòng, an ninh quốc gia, thực hiện đường lối đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, để xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tám phương hướng xây dựng đất nước mà Đảng đã xác định, Tổng Bí thư đã nhấn mạnh và quán triệt bao hàm những điểm căn cốt, chủ yếu trong đường lối, chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện sự nhất quán của Đảng về sự nghiệp và cách thức tiếp tục công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Tám phương hướng cũng chính là những nội dung cốt lõi nhất về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh mới.
2. Cung cấp cơ sở lý luận cho việc hoàn thiện và phát triển hệ thống lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
a) Bổ sung làm sâu sắc, cụ thể hơn lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nội dung quan trọng trong đường lối đổi mới của Đảng, góp phần to lớn vào thắng lợi của công cuộc đổi mới cũng như hình thành mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Tổng Bí thư nhận xét: “Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới”[15]. Quan niệm đó đã làm rõ được những thuộc tính, đặc trưng riêng có của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, tạo nên sự khác biệt với những nền kinh tế thị trường đã có đang tồn tại trên thế giới. Đó là “nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối”[16].
Về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế, Tổng Bí thư nhấn mạnh là một sáng tạo của Đảng ta. Đó là nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong các thành phần kinh tế ngoài nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, nhất là thành phần kinh tế tư nhân được nhận thức ngày càng rõ. Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế, thị trường điều tiết sản xuất và lưu thông. Nhưng kinh tế tư nhân và thị trường đều phải tuân thủ luật pháp, chính sách của Nhà nước, hướng tới và đóng góp vào thực hiện những mục tiêu do Nhà nước đề ra. Kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển thành những tập đoàn kinh tế mạnh, hoạt động cả ở trong nước và ngoài nước, nhưng cũng được khuyến khích phát triển thành các công ty cổ phần, có sự tham gia rộng rãi của người lao động, tích cực tham gia, thực hiện tốt trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường.
Về quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam, theo Tổng Bí thư, đây là một trong những nét độc đáo cả trong nhận thức và trong thực tiễn. Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối với nhiều hình thức, chủ yếu là phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế và theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác; phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Về cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, sự tham gia của các tổ chức xã hội và của nhân dân. Trong đó, thị trường vận động, phát triển tuân theo các quy luật kinh tế thị trường, đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ hiệu quả các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông, điều tiết hoạt động của doanh nghiệp. Nhà nước không “chỉ huy” nền kinh tế bằng một “kế hoạch pháp lệnh”, không can thiệp sâu, trực tiếp vào quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp như trong nền kinh tế kế hoạch trước đây, mà có vai trò quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế. Các tổ chức xã hội và nhân dân giám sát hoạt động của các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước, các hoạt động của doanh nghiệp, thị trường, đồng thời phản ánh với Nhà nước những vấn đề của thị trường và của Nhà nước có ảnh hưởng tới phát triển nền kinh tế cũng như đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân.
Ảnh minh họa. |
Ngày nay, hầu hết các quốc gia đều quan tâm đến vấn đề xã hội. Ở mỗi mô hình kinh tế khác nhau, nhà nước sẽ lựa chọn cách thức giải quyết vấn đề xã hội khác nhau, thể hiện qua vai trò tham gia của nhà nước vào nền kinh tế. Có mô hình giải quyết vấn đề xã hội dựa vào thị trường, nhà nước chỉ can dự tối thiểu; có mô hình nhà nước thu thuế của doanh nghiệp rất cao, dùng khoản tiền thuế đó để phân phối lại, giải quyết vấn đề xã hội; cũng có mô hình lấy ngân sách (chủ yếu là nguồn thu từ các cơ sở sản xuất thuộc nhà nước), để chi trả cho các vấn đề xã hội. Mỗi mô hình như vậy có những thành công và hạn chế khác nhau.
Ở Việt Nam, giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và xã hội được coi là nét đặc sắc trong nền kinh tế thị trường, thể hiện mối quan hệ hài hòa, biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Gắn kết kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước trong từng thời kỳ là một trong những yêu cầu có tính nguyên tắc, là một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường nước ta. Tổng Bí thư luận giải rõ, điều đó có nghĩa là: Không chờ đến khi đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ, công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách phát triển xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn.
Giải quyết vấn đề xã hội trong nền kinh tế thị trường ở nước ta đã tạo nên một giá trị lớn, góp phần nhận diện ngày càng rõ bản chất của chủ nghĩa xã hội trong phát triển kinh tế thị trường Việt Nam. Do điểm xuất phát bước vào phát triển nền kinh tế thị trường của Việt Nam còn rất nhiều khó khăn, chúng ta không có nguồn lực đủ lớn, tích lũy từ tiền thuế của doanh nghiệp để chi trả cho bảo đảm xã hội như ở một số mô hình kinh tế thị trường khác (hơn 90% là doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó doanh nghiệp quy mô siêu nhỏ hơn 62%[17]), chắc chắn chúng ta không có nguồn lực đủ lớn, tích lũy từ tiền thuế của doanh nghiệp để chi trả và bảo đảm cho các vấn đề xã hội.
Nhận thức rõ điều này, Đảng ta đã ban hành chủ trương thực hiện công bằng, tiến bộ xã hội trong từng chính sách, trong từng bước phát triển của kinh tế thị trường, xem đây là cách thức tối ưu để vừa phát triển kinh tế, vừa bảo đảm xã hội. Nền kinh tế thị trường cung cấp việc làm, hàng hóa, dịch vụ, nâng mức sống, mức tiêu dùng ngày càng cao cho xã hội. Song song với đó, việc bảo đảm xã hội lại tạo ra nguồn lực, nhu cầu hàng hóa và dịch vụ cho thị trường, nuôi dưỡng thị trường. Trong nền kinh tế đó, các doanh nghiệp phải đề cao trách nhiệm xã hội, chia sẻ với người dân trong từng bước phát triển, trong giải quyết lao động, việc làm. Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đòi hỏi phải hoạt động hiệu quả với tinh thần phục vụ, kiến tạo và phát triển hơn. Nhà nước không chỉ ban hành luật pháp, chính sách, xây dựng chiến lược, quy hoạch... mà còn có và sử dụng các công cụ, lực lượng vật chất quan trọng (khu vực kinh tế nhà nước) để quản lý, điều tiết, định hướng, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, gắn kết mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội và các mục tiêu khác của đất nước. Rõ ràng, một nền kinh tế như vậy phù hợp với điều kiện lịch sử, văn hóa, xã hội Việt Nam; sẽ khắc phục được những hạn chế, khiếm khuyết của thị trường, thể hiện được tinh thần tương thân tương ái, nghĩa đồng bào và trách nhiệm xã hội.
Với cấu trúc, cơ chế vận hành, cơ chế phân phối như vậy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là “nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế phù hợp với thông lệ, tiêu chí chung trên thế giới”, đồng thời có những thuộc tính, đặc trưng riêng phù hợp với xu thế phát triển của thời đại và thực tiễn của đất nước, góp phần tạo nên và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển. Đây thực sự là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường. Nó không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, bởi vì các yếu tố vốn mang tính chất tư bản chủ nghĩa đã được Nhà nước quản lý, điều tiết, chuyển hóa. Nó cũng chưa phải là “nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ”, bởi nó đang vận hành trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Các yếu tố xã hội chủ nghĩa và các yếu tố phi xã hội chủ nghĩa cùng tồn tại, trong đó các yếu tố xã hội chủ nghĩa được hình thành ngày càng rõ nét, phát triển mạnh mẽ, định hướng từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chính thực tiễn phát triển mô hình kinh tế này đã đem lại những thay đổi to lớn, rất tốt đẹp cho đất nước trong gần 40 năm qua kể từ khi tiến hành đổi mới toàn diện đất nước đến nay. Mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm; thu nhập bình quân đầu người tăng 17 lần. Đời sống nhân dân được nâng cao; hộ nghèo giảm đáng kể; trình độ dân trí tăng cao; tuổi thọ trung bình của người dân tăng lên 73,7 tuổi; chỉ số phát triển con người (HDI) đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển[18].
b) Bổ sung, làm sâu sắc, cụ thể hơn lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo đã được Đảng ta đặc biệt quan tâm trong thời kỳ đổi mới, góp phần quan trọng cho việc định hình mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam ngày càng rõ hơn. Trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn về xây dựng nhà nước pháp quyền trên thế giới, đặt vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta qua gần 40 năm đổi mới, đã được nhận diện với các đặc trưng là: “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”[19]; đồng thời, “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”[20].
Làm sâu sắc hơn các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh: (1) Không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo là chủ trương nhất quán và không ngừng nghỉ của Đảng ta; (2) Nhiệm vụ xuyên suốt của Nhà nước là đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội; (3) Sự khác biệt về bản chất giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với nhà nước pháp quyền tư sản ở chỗ: Pháp quyền dưới chủ nghĩa tư bản thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa thì ngược lại, là công cụ thể hiện, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân; (4) Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân[21].
Quan điểm chỉ đạo trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Đảng ta là phải hướng đến một mục tiêu tối thượng và cũng là động lực hoạt động của Nhà nước là: tất cả để phục vụ nhân dân, vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân. Đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi thể chế, thiết chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thiết kế tổ chức, hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải thể hiện được mục tiêu, động lực vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân, thể hiện được khát vọng phát triển đất nước; điều này không chỉ trên văn bản, mà quan trọng hơn, pháp luật phải được thực thi trên thực tế bởi nhà nước pháp quyền. Trên phạm vi toàn quốc cũng như ở từng địa phương, cần phải xây dựng được chỉ số pháp quyền, trong đó có tiêu chí “hạnh phúc” nhằm mục tiêu phục vụ nhân dân.
Trong bài phát biểu tại Phiên khai mạc kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XV (ngày 20/7/2021), Tổng Bí thư nhấn mạnh: Sớm xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn... đáp ứng được những yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng, và tâm tư, nguyện vọng của nhân dân trong giai đoạn mới[22]. Với vị trí là cơ quan hành chính cao nhất của cả nước, Tổng Bí thư đề nghị Chính phủ cần siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong thực thi công vụ. Kiên trì, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực gắn với đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách để “không thể, không dám, không muốn, không cần tham nhũng”[23].
Những điểm mới bổ sung của Tổng Bí thư về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vừa là những chỉ dẫn để tổ chức thực hiện trong thực tiễn, đòi hỏi phải có sự nhận thức lý luận khoa học và cách mạng, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; vừa là cơ sở để phòng ngừa những tư tưởng chủ quan, nóng vội, áp dụng một cách máy móc các mô hình nhà nước pháp quyền của các nước khác vào Việt Nam; đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch, phủ nhận đường lối, quan điểm của Đảng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và thực hiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam trong bối cảnh mới.
c) Bổ sung, làm sâu sắc, cụ thể hơn lý luận về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Trong những năm thực hiện đổi mới, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc rằng, để đi lên chủ nghĩa xã hội, cùng với nhiệm vụ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, nhất thiết phải xây dựng thành công nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bởi vì “dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển”, không có dân chủ thì không có chủ nghĩa xã hội. Đây cũng là căn cứ để Đảng ta xác định, dân chủ là một trong những thành tố quan trọng trong hệ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tổng Bí thư bổ sung làm rõ bản chất và đặc điểm của dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là chế độ dân chủ thực sự, không phải là dân chủ hình thức, cực đoan, vô chính phủ. Nó đối lập với chuyên quyền độc đoán, đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, quan liêu. Nói một cách khác, dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ thấm nhuần đầy đủ và sâu sắc nhất tính pháp lý và tính nhân văn. Thực tiễn cách mạng Việt Nam, nhất là trong gần 40 năm đổi mới đã thể hiện rất rõ và hết sức sinh động những tiến bộ đạt được trong phát huy dân chủ cũng như xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Tuy nhiên, Đảng ta chỉ rõ: “Quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm; vẫn còn biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật”[24], nguyên nhân của hạn chế này là do hoạt động của hệ thống chính trị chưa thực sự đồng bộ, hiệu quả, các điều kiện để người dân làm chủ chưa đầy đủ, sự thiếu gương mẫu của một bộ phận cán bộ, đảng viên, sự thiếu ý thức dân chủ, lợi dụng dân chủ của một bộ phận nhân dân... Do vậy, Tổng Bí thư yêu cầu: “Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một trong những nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam”[25].
Là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài, do vậy, Tổng Bí thư nhấn mạnh phải có một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có, vận hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Phải phát huy vai trò chủ thể của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân, nhằm huy động mọi nguồn lực đẩy nhanh sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng thông qua Nhà nước lãnh đạo toàn xã hội phát triển theo đúng con đường xã hội chủ nghĩa. Nhà nước là tổ chức quyền lực của nhân dân, thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật, tổ chức quản lý, điều hành xã hội để hiện thực đường lối chính trị của Đảng, hành động vì quyền lợi của nhân dân, điều gì có lợi cho dân phải cố gắng làm, điều gì có hại cho dân phải hết sức tránh, chăm lo phát triển, bồi dưỡng và tiết kiệm sức dân như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đối với Nhà nước, Tổng Bí thư nhấn mạnh, Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp tục thực hiện nhiều đổi mới “thúc đẩy việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, xây dựng nền dân chủ và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”[26]. Chính phủ phải đẩy mạnh cải cách nền hành chính quốc gia trên cả bốn phương diện: thể chế hành chính, bộ máy hành chính, công chức hành chính và quản lý tài chính. Phải có một nền hành chính gần dân, vì dân, phục vụ dân, chuyên nghiệp, theo hướng hiện đại...
Với “vai trò nòng cốt để nhân dân làm chủ”, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội từng bước đổi mới theo hướng phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân nhằm huy động mọi nguồn lực phục vụ mục tiêu phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là phát huy vai trò tích cực, tự giác, sáng tạo của nhân dân, “đẩy mạnh thực hành dân chủ ở cơ sở, thực hiện giám sát và phản biện xã hội, tham gia phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh”[27]. Nhân dân là người chủ xã hội, cho nên nhân dân không chỉ có quyền, mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định, thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Như vậy, trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát, là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích. Đây là một trong 10 mối quan hệ lớn cần được nắm vững và giải quyết hiện nay nhằm hiện thực hóa mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của gần 40 năm đổi mới đã khẳng định mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam với ba trụ cột cơ bản nêu trên là mô hình chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi. Mô hình này đang hướng tới là một xã hội với những giá trị cốt lõi như Tổng Bí thư đã nêu rõ.
d) Bổ sung, làm sâu sắc hơn lý luận về xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam
Trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam đã hình thành một hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị gia đình cũng như đã xây dựng chuẩn mực con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển.
Bổ sung, làm sâu sắc hơn lý luận về xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam. Ảnh minh họa: Tạp chí Tuyên giáo. |
Vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi nền văn hóa Việt Nam đang đối mặt với khủng hoảng trong định hướng giá trị khi tiếp xúc với văn minh phương Tây, Đề cương về văn hóa Việt Nam (năm 1943) đã xác lập nền văn hóa Việt Nam là “dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung”[28].
Trong tác phẩm Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam của Tổng Bí thư Trường Chinh (Báo cáo đọc ở Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 16 - 20/7/1948) do Hội Văn nghệ Việt Nam xuất bản năm 1949, nền văn hóa Việt Nam được xây dựng lúc đó là: “Văn hóa dân chủ mới Việt Nam phải gồm đủ ba tính chất: dân tộc, khoa học và đại chúng”[29]. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (năm 1960), Đảng ta nhấn mạnh việc xây dựng nền văn hóa mới với “nội dung xã hội chủ nghĩa và hình thức dân tộc”. Tại Đại hội IV của Đảng (năm 1976), cụm từ “tính chất dân tộc” đã thay thế cụm từ “hình thức dân tộc”. Năm 1991, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta khẳng định, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”[30]. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (năm 1998) đã nhấn mạnh, nền văn hóa tiên tiến “là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người” và bản sắc dân tộc “bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước”[31]. Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (năm 2014) xác định “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”[32]. Tại các kỳ đại hội Đảng sau đó, việc xây dựng giá trị văn hóa, chuẩn mực con người Việt Nam luôn được chú trọng.
Cùng với việc xây dựng và định hướng của giá trị văn hóa, chuẩn mực con người Việt Nam toàn diện, sâu sắc hơn, các lĩnh vực, loại hình, sản phẩm văn hóa của Việt Nam, ở Việt Nam ngày càng phát triển đa dạng, đáp ứng nhu cầu mới, nhiều mặt của đời sống xã hội. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa được kế thừa, bảo tồn và phát huy. Tinh hoa văn hóa thế giới được tiếp nhận phù hợp với đặc điểm cụ thể của Việt Nam. Những chuẩn mực cụ thể đối với mỗi người ở từng lĩnh vực cụ thể bước đầu được xây dựng như: chuẩn mực đạo đức nhà giáo, nhân viên y tế, người chiến sĩ công an, người lính “bộ đội Cụ Hồ”... Song, bên cạnh đó, Đại hội XIII của Đảng nhận định: “văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thực sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước. Vai trò của văn hóa trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn có chiều hướng coi trọng chức năng giải trí đơn thuần”[33]. Việc xây dựng chuẩn mực con người có bước tiến bộ ở một số ngành, lĩnh vực cụ thể, song ở tầm khái quát nhất, điều này lại chưa được thể hiện một cách rõ ràng, để từ đó, mọi lĩnh vực, ngành nghề, mọi người có thể soi chiếu, phấn đấu. Vì lẽ đó, Đại hội XIII của Đảng đã đặt ra mục tiêu “tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”[34].
Tại Hội nghị văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, ngày 24/11/2021, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định, xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị, chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy hệ giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị của quốc gia và xây dựng chuẩn mực con người Việt Nam; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo. Những giá trị ấy được nuôi dưỡng bởi văn hóa gia đình Việt Nam với những giá trị cốt lõi: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; được bồi đắp, phát triển bởi nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với hệ giá trị: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; trên nền tảng của hệ giá trị quốc gia và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc ta: Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc[35].
Như vậy, có thể thấy, trên cơ sở chủ trương của Đảng, Tổng Bí thư đã đề xuất việc xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình, và chuẩn mực con người Việt Nam. Quan điểm của Tổng Bí thư về những nội dung này là cơ sở, nền tảng để chúng ta kế thừa, xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời gian tới.
* Trích trong sách: Vũ Trọng Lâm (Chủ biên): Nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua các tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2024.
[1] Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.128-149.
[2] Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.70.
[3] Xem Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.24.
[4] Xem Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.21.
[5] Xem Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.28.
[6] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.22.
[7] Xem Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.18.
[8] Xem Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.22.
[9] Xem Nguyễn Phú Trọng: “Giữ vững niềm tin đi con đường đã chọn”, Tạp chí Cộng sản, số 10/1991.
[10] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.34.
[11] Xem Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.23.
[12] Xem Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.23-24.
[13] Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.135-136.
[14] Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.72.
[15] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.25.
[16] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.25-26.
[17] Xem Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam 2021, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2022, tr.37.
[18] Xem Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.31-33.
[19] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.85.
[20] Điều 3, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
[21] Xem Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.28-29.
[22] Xem Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.80-81.
[23] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.97.
[24] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.89.
[25] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.28.
[26] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.76.
[27] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.104.
[28] “Đề cương về văn hóa Việt Nam” in trong sách Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.320.
[29] Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam/Tư liệu về Đảng/Sách chính trị/Tác phẩm năm 1948/Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam.
[30] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.134.
[31] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.55-56.
[32] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014, tr.48.
[33] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.84.
[34] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.143.
[35] Xem Nguyễn Phú Trọng: “Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, số 979, tháng 12/2021, tr.7-11.