Linh hoạt ứng phó áp lực thanh khoản cuối năm
(ĐCSVN) - Với việc duy trì quan điểm nhất quan là tiếp tục kiên định ổn định thị trường tiền tệ, thông suốt thanh khoản, duy trì tỷ giá ổn định, bằng những động thái tích cực, linh hoạt của mình, Ngân hàng Nhà nước đã cho thấy sự hiệu quả trong quản lý thị trường tiền tệ, nhịp nhàng trong quá trình “bơm – hút” dòng tiền để giảm áp lực thanh khoản cuối năm, gia tăng dự trữ ngoại hối nhưng không buông lỏng mục tiêu kiểm soát lạm phát.
“Cuộc đua” huy động vốn tiếp tục nóng khi không ít các ngân hàng tăng lãi suất tiền gửi (Ảnh: M.P) |
Trong thời gian gần đây, “cuộc đua” huy động vốn tiếp tục nóng khi không ít các ngân hàng tăng lãi suất tiền gửi tiết kiệm như: NCB, OCB, Techcombank, Bac A Bank... Trong đó, NCB là một trong những ngân hàng nâng lãi suất huy động lên trên 10%/năm. Cụ thể, hình thức gửi tiết kiệm online kỳ hạn từ 13 tháng trở lên có lãi suất cao nhất là 10,1%/năm dành cho khách hàng mới, 9,9%/năm dành cho khách hàng cũ; các kỳ hạn ngắn dưới 6 tháng, ngân hàng này áp dụng mức lãi suất kịch trần 6%/năm. Đối với hình thức gửi tại quầy, mức lãi suất kỳ hạn từ 13 tháng trở lên cao nhất là 9,7%/năm.
Điều đáng nói, ở một số ngân hàng quy mô nhỏ, do áp lực thanh khoản cuối năm nên theo phản ánh đã xuất hiện tình trạng thỏa thuận lãi suất ngoài, với biên độ cộng thêm 1 - 2%/năm so với bảng lãi suất niêm yết. Hiện có ngân hàng chào mức lãi suất huy động 13,5%/năm cho kỳ hạn 18 tháng, 12,5%/năm cho kỳ hạn 13 tháng, gần gấp đôi so với cuối năm 2021.
Thực tế cho thấy, tình trạng chênh lệch tín dụng và huy động “âm”, mất cân đối về mặt kỳ hạn giữa huy động và cho vay, nhu cầu tín dụng gia tăng, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay tăng nhanh có thể dẫn đến rủi ro nợ xấu phát sinh trong tương lai. Vì thế, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Văn bản 8728/NHNN, yêu cầu các ngân hàng phải báo cáo lãi suất tiền gửi và cho vay của giao dịch phát sinh mới trong kỳ báo cáo hàng tuần cho cơ quan này. Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cho biết, mục đích là để phục vụ việc quản lý hoạt động ngân hàng và điều hành chính sách tiền tệ.
Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu, các ngân hàng phải thực hiện báo cáo lãi suất định kỳ hàng tuần và phải gửi trước 11h ngày thứ Hai của tuần tiếp theo cho Vụ Chính sách tiền tệ, thuộc Ngân hàng Nhà nước. Trường hợp ngân hàng có quyết định thay đổi về mức lãi suất trong kỳ báo cáo tuần thì phải gửi quyết định điều chỉnh lãi suất cho Ngân hàng Nhà nước.
Theo Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam Nguyễn Quốc Hùng, trong bối cảnh hiện nay, nhằm tiếp tục ổn định thị trường tiền tệ, các ngân hàng cần đồng thuận giữ mặt bằng lãi suất ổn định để đảm bảo an toàn hệ thống và hỗ trợ giảm lãi suất cho vay doanh nghiệp, người dân, cũng như hỗ trợ nhau nguồn lực để thanh khoản hệ thống thông suốt. Bên cạnh đó, các ngân hàng cần trích lập dự phòng rủi ro đầy đủ, đẩy mạnh truyền thông để dư luận hiểu và chia sẻ hoạt động kinh doanh ngân hàng. Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cũng đã đề xuất, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng qua các công cụ thị trường mở (OMO), ưu tiên đáp ứng tối đa nhu cầu vốn của các ngân hàng qua kênh này.
Chia sẻ về vấn đề này, chuyên gia kinh tế Võ Trí Thành cho rằng, tín dụng tăng nhanh trong khi huy động tăng chậm, có tình trạng ngân hàng huy động 100 đồng, cho vay đến 90 đồng. Từ đầu năm 2022 đến đầu quý III/2022, kinh tế Việt Nam phục hồi nhanh hơn kỳ vọng nhiều. Trong quá trình phục hồi đó ẩn chứa một số vấn đề như hệ thống ngân hàng xuất hiện tình trạng “căng thẳng” thanh khoản. Trong bối cảnh có nhiều áp lực từ bên ngoài và bên trong, Ngân hàng Nhà nước buộc phải tăng lãi suất điều hành hai lần, chấp nhận nguy cơ VND mất giá sâu hơn so với USD. Thực tế, gần đây đồng VND tăng giá, nhưng trước đó có thời điểm như ở đầu quý 4/2022, VND đã mất giá gần 9% so với cuối năm 2021. Thế nhưng, trong hơn 3 quý đầu năm 2022, tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng huy động của nhiều ngân hàng tăng so với đầu năm đã làm tăng thêm áp lực cho các ngân hàng trong thời điểm thị trường đang khát vốn.
Tổng nguồn vốn ngắn hạn của ngành ngân hàng hiện chiếm 80%, nhưng 50% tổng dư nợ nền kinh tế là cho vay trung và dài hạn, cho thấy có sự chênh lệch lớn về mặt kỳ hạn giữa huy động và cho vay. Theo thông tin từ Ngân hàng Nhà nước, tính đến ngày 29/11/2022, tín dụng toàn nền kinh tế tăng 12,2% so với cuối năm 2021 và tăng so mức 11,5% cuối tháng 10. Trong khi đó, huy động vốn của ngành ngân hàng đến cuối tháng 9/2022 chỉ tăng 4,6%.
Có thể thấy, chênh lệch tín dụng và huy động “âm” cộng với nhu cầu vốn đáp ứng hoạt động kinh doanh và thanh toán thời điểm cuối năm khiến mặt bằng lãi suất tăng chưa có dấu hiệu dừng lại. “Cuộc đua” tăng lãi suất huy động thời gian qua cũng đã cho thấy mức độ căng thẳng khi các ngân hàng phải tăng cường bù đắp nguồn vốn cho phần cho vay trong 9 tháng đầu năm cũng như áp lực thanh khoản cuối năm. Thực tế, theo báo cáo của các ngân hàng, chênh lệch huy động vốn và tín dụng đã xuống mức âm kể từ tháng 7/2022, tốc độ tăng trưởng tín dụng cao hơn so với tốc độ tăng trưởng vốn huy động khiến tỷ lệ dư nợ tín dụng trên huy động (LDR) tại nhiều ngân hàng tăng cao.
Trong một phân tích đã được phát đi của mình, Công ty Chứng khoán SSI cho rằng, áp lực cân đối vốn từ phía các ngân hàng rất lớn, trong bối cảnh thanh khoản trên hệ thống về trung hạn hầu như chưa được cải thiện. Tính đến cuối quý III/2022, tỷ lệ LDR theo Thông tư 22/2019/TT-NHNN (bao gồm cả tiền gửi liên ngân hàng) được giữ ở mức thấp hơn 85% (đây là mức tối đa cho phép), nhưng tỷ lệ LDR thuần (tính riêng thị trường 1) vượt quá 99%. Tỷ lệ LDR cao cho thấy khả năng sinh lời cao, nhưng đồng thời rủi ro thanh khoản tăng theo. Một số ngân hàng có tỷ lệ LDR cao hơn 85% là BIDV, VietinBank, MB, Techcombank, Saigonbank; tỷ lệ LDR thuần cao hơn 100% là MSB, Techcombank, VIB, VPBank…
Trước bối cảnh nêu trên, Ngân hàng Nhà nước nới hạn mức tăng trưởng (room) tín dụng toàn hệ thống thêm 1,5 - 2%, lên 15,5 - 16% nhằm đáp ứng nhu cầu tín dụng của thị trường. Tuy nhiên, sự gia tăng của tỷ lệ LDR trong thời gian qua cho thấy các ngân hàng đang đứng trước bài toán khó về cân đối vốn. Kèm trong thông báo nới “room” tín dụng, cơ quan quản lý cho biết, sẽ hỗ trợ thanh khoản để các ngân hàng có thể giải ngân tín dụng.
Thế nhưng, theo ông Nguyễn Quốc Hùng, được nới “room” tín dụng, nhưng ngân hàng vẫn khó huy động nguồn tiền nhàn rỗi, cũng khó có thể đẩy mạnh cho vay dịp cuối năm. Áp lực đối với lãi suất trên thị trường 1 (dân cư và tổ chức kinh tế) vẫn còn cao khi bối cảnh thanh khoản trên hệ thống về trung hạn chưa có nhiều cải thiện.
Về phía cơ quan quản lý nhà nước, TS. Phạm Chí Quang, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước chia sẻ, trong tổng nguồn vốn của ngành ngân hàng hiện nay, vốn ngắn hạn chiếm 80%, vốn tự có và các nguồn vốn trung - dài hạn chiếm 20%. Trong khi đó, 50% tổng dư nợ nền kinh tế là cho vay trung và dài hạn, cho thấy biên độ chênh lệch rất lớn về mặt kỳ hạn giữa huy động và cho vay. Điều này dẫn đến hai rủi ro đáng kể cho ngành ngân hàng là rủi ro về thanh khoản và rủi ro chi trả cho người gửi tiền. Nếu dòng tiền luân chuyển không tốt, nợ xấu phát sinh sẽ không có tiền trả nợ đến hạn 6 tháng cho người gửi tiền. Một rủi ro khác là rủi ro lãi suất. Hiện lãi suất ngắn hạn biến động liên tục, trong khi lãi suất cho vay trung và dài hạn theo hợp đồng thường quy định sau 1 năm mới điều chỉnh. Ngân hàng đối mặt với rủi ro lãi suất trong bối cảnh lạm phát tăng, môi trường lãi suất biến động lớn.
Mặt khác, gần đây, quy mô tín phiếu Ngân hàng Nhà nước từ mức 0 đã được đẩy lên tới gần 100.000 tỷ đồng chỉ sau vài phiên giao dịch trong khi khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố đã giảm từ mức 82.000 tỷ đồng xuống còn khoảng 50.000 tỷ đồng. Điều này là minh chứng rõ nét về việc, cơ quan điều hành chuyên ngành đã rất nhịp nhàng trong quá trình “bơm – hút” dòng tiền, vừa thỏa mãn kịp thời nhu cầu thanh khoản nhưng không buông lỏng mục tiêu kiểm soát lạm phát.
Đơn cử trong phiên giao dịch ngày 27/12, Ngân hàng Nhà nước chào thầu 6.000 tỷ đồng trên kênh cầm cố với kỳ hạn 7 ngày, lãi suất 6%/năm. Qua đó, các tổ chức tín dụng tiếp cận 3.460 tỷ đồng. Trái lại, kênh này có tới 9.610 tỷ đồng đáo hạn. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng chào thầu tín phiếu với kỳ hạn 7 ngày, có gần 20.000 tỷ đồng trúng thầu với lãi suất 5,5%. Ngược lại, cũng có tới 20.000 tỷ đồng tín phiếu đáo hạn trong ngày. Như vậy, chỉ riêng phiên này, nhà điều hành tiền tệ đã hút ròng 6.150 tỷ đồng thông qua kênh thị trường mở. Thậm chí, diễn biến hút ròng liên tục được ghi nhận trong các phiên gần đây khi cơ quan này tăng phát hành tín phiếu và để lượng tiền hỗ trợ thanh khoản trước đó đáo hạn.
Ngân hàng Nhà nước thực hiện hút ròng trong bối cảnh thanh khoản ngân hàng có phần nào dư thừa trong ngắn hạn. Điều này thể hiện khá rõ ở việc lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn qua đêm chỉ còn duy trì tại mức 3,45%, giảm mạnh so với mức gần 6% cách đây một tháng. Các nguyên nhân dẫn đến thanh khoản bất ngờ dư thừa trong ngắn hạn có thể đến từ việc các ngân hàng thương mại đẩy mạnh chuẩn bị phần nguồn cho giai đoạn cao điểm cuối năm, trong khi hoạt động tín dụng trên hệ thống chưa tích cực như kỳ vọng.
Số liệu Ngân hàng Nhà nước vừa công bố cũng cho thấy điều này, đến ngày 21/12/2022, tín dụng toàn nền kinh tế đạt trên 11,78 triệu tỷ đồng, tăng 12,87% so với cuối năm 2021. Theo đó, trong hơn 20 ngày, dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế tăng khoảng 0,67 điểm phần trăm, tương đương tăng khoảng 70.000 tỷ đồng. Lượng tiền cung ứng trong lưu thông được bơm vào từ 20/9/2022 đến 21/12/2022 ước khoảng 182.270 tỷ đồng.
Còn theo số liệu Tổng cục Thống kê vừa công bố ngày 29/12/2023, tổng phương tiện thanh toán tính đến thời điểm 21/12/2022 đã tăng 3,85% so với cuối năm 2021, tuy nhiên, cung tiền đã cải thiện đáng kể so với cuối quý III/2022. Trước đó, tốc độ tăng của tổng phương tiện thanh toán so với cuối năm trước đã đi lùi trong quý III, từ mức 3,3% thời điểm 20/6/2022 xuống còn 2,49%. Lượng tiền trong nền kinh tế trở lại ngang thời điểm ngày 20/3/2022.
Nhiều chuyên gia Tài chính – ngân hàng nhận định, sở dĩ tín dụng tăng thấp là do tốc độ hồi phục của doanh nghiệp sau đại dịch vẫn còn chậm, trong khi từ đầu năm 2022, đặc biệt là từ tháng 8/2022, Ngân hàng Nhà nước chủ trương nâng mặt bằng lãi suất để bảo vệ tỷ giá và kiểm soát lạm phát nên các doanh nghiệp hạn chế vay mượn. Chưa kể, về phía ngân hàng vẫn không hạ chuẩn mực tiếp cận tín dụng nên các doanh nghiệp không dễ vay, nhất là đối với khu vực bất động sản.
Trong một diễn biến khác, với việc Ngân hàng Nhà nước liên tục hút ròng, tỷ giá tại các thị trường đều hạ nhiệt. Cũng trong ngày 27/12, tỷ giá trung tâm ở mức 23.634 VND/USD, giảm nhẹ 2 VND so với phiên liền trước. Trên liên ngân hàng, giá USD giảm về 23.595 VND, giảm 13 VND. Tương tự, giá USD trên thị trường tự do giảm 70 VND ở chiều mua vào và 40 VND ở chều bán ra. Nhìn chung, nhờ sự can thiệp kịp thời, tỷ giá USD/VND chỉ tăng khoảng 3,81% so với cuối năm 2021, mức mất giá của VND so với USD thấp hơn các đồng tiền khác trên thế giới.
Thực tế minh chứng, với việc duy trì quan điển nhất quan là tiếp tục kiên định ổn định thị trường tiền tệ, thông suốt thanh khoản, duy trì tỷ giá ổn định, bằng những động thái tích cực, linh hoạt của mình, Ngân hàng Nhà nước đã cho thấy sự hiệu quả trong quản lý thị trường tiền tệ, nhịp nhàng trong quá trình “bơm – hút” dòng tiền để giảm áp lực thanh khoản cuối năm, gia tăng dự trữ ngoại hối nhưng không buông lỏng mục tiêu kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế./.