Hà Giang: Tập trung thực hiện 5 nhóm nhiệm vụ, giải pháp để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 11 của Bộ Chính trị
(ĐCSVN) - Đảng bộ, nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang rất phấn khởi sau khi Bộ Chính trị tổng kết Nghị quyết số 37-NQ/TW và ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị sẽ giúp cho các tỉnh phát triển nhanh và bền vững hơn, từng bước thu hẹp trình độ phát triển và mức sống của nhân dân trong vùng so với các vùng trong cả nước.
Hình ảnh Hội nghị toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 10/2/2022 của Bộ Chính trị tại điểm cầu Hà Nội (Ảnh: Phạm Cường) |
Sau 17 năm thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 1/7/2004 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2020, từ một địa phương rất khó khăn và nghèo nhất cả nước, tỉnh Hà Giang đã tổ chức triển khai nghị quyết hiệu quả, có nhiều cách làm sáng tạo, nhận thức ngày càng rõ rệt về vai trò địa chính trị quan trọng và khai thác tốt các tiềm năng, lợi thế, gắn với liên kết vùng. Vì vậy, kinh tế - xã hội có sự phát triển nhanh hơn, diện mạo, quy mô kinh tế của tỉnh có nhiều thay đổi, kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số được cải thiện rõ rệt.
Kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng khá, đạt mức bình quân 8,08%/năm; năm 2020 thu ngân sách trên địa bàn tăng 13,7 lần so với năm 2004, tổng sản phẩm bình quân đầu người (GRDP/người) tăng 10,8 lần so với năm 2004. Kết cấu hạ tầng từng bước được cải thiện, diện mạo đô thị, nông thôn, đặc biệt ở vùng sâu, vùng cao ngày càng đổi mới; 100% số xã có đường ô tô cứng hóa đến trung tâm xã; 86,2% các thôn, bản có đường đi được xe cơ giới đến trung tâm; 94,4% số hộ dân ở nông thôn được sử dụng điện; 88,2% dân cư nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; thành phố Hà Giang và 47/175 xã đạt chuẩn nông thôn mới. Các lĩnh vực văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, chất lượng giáo dục và đào tạo có chuyển biến tích cực, 100% xã có trường lớp học kiên cố, tỷ lệ trường học đạt chuẩn quốc gia đạt 45,3%; chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm, 100% xã, phường đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 98,5%; bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc được bảo tồn và phát huy; công tác dân tộc, tôn giáo và chính sách xã hội được thực hiện tốt; tỷ lệ hộ nghèo từ 43,73% năm 2006 giảm còn 21,44% cuối năm 2020; tỷ lệ che phủ rừng tăng 16,3%.
Chương trình xây dựng nông thôn mới được quan tâm chỉ đạo quyết liệt, theo phương châm thực chất, xuất phát từ lợi ích của người dân, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, triển khai phù hợp với vị trí miền núi khó khăn gắn với các chương trình của tỉnh như: Chương trình hỗ trợ xi măng xây dựng đường giao thông nông thôn; Chương trình hỗ trợ xây dựng nhà ở cho cựu chiến binh nghèo, người có công, gia đình chính sách, hộ nghèo có khó khăn về nhà ở trong gần 3 năm (từ tháng 7/2019 - 2021) toàn tỉnh đã hoàn thành 5.233 nhà với tổng kinh phí xã hội hóa trên 308 tỷ đồng; Chương trình cải tạo vườn tạp, phát triển kinh tế vườn hộ, tạo sinh kế cho người dân, giảm nghèo bền vững bước đầu đi vào cuộc sống, có sức lan tỏa, kết quả sau một năm thực hiện đã có 2.477 hộ tham gia, được nhân dân đồng tình, ủng hộ.
Tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền, đến nay không còn thôn bản trắng chi bộ; kiện toàn, sắp xếp bộ máy trong vùng liên kết tốt hơn để tinh gọn, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được quan tâm đào tạo, nâng cao chất lượng, nhất là đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, cán bộ nữ; 19 dân tộc luôn đoàn kết, thống nhất, đồng thuận cao. Phát triển kinh tế - xã hội phải được kết hợp chặt chẽ với đảm bảo quốc phòng, an ninh, nhất là an ninh biên giới, chủ quyền biên giới quốc gia, giữ vững, trật tự an toàn xã hội.
Bí thư Tỉnh ủy Hà Giang Đặng Quốc Khánh dự Hội nghị quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị tại điểm cầu Hà Nội |
Đảng bộ, nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang rất phấn khởi sau khi Bộ Chính trị tổng kết Nghị quyết số 37-NQ/TW và ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị sẽ giúp cho các tỉnh phát triển nhanh và bền vững hơn, từng bước thu hẹp trình độ phát triển và mức sống của nhân dân trong vùng so với các vùng trong cả nước. Để thực hiện hiệu quả công tác giảm nghèo bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới theo tinh thần Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị, trong những năm tới, tỉnh Hà Giang sẽ tập trung thực hiện một số nhiệm vụ và giải pháp sau:
Thứ nhất, tập trung làm tốt công tác tuyên truyền Nghị quyết số 11-NQ/TW gắn với Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững: Thực hiện đồng bộ các giải pháp tuyên truyền như: Bồi dưỡng, tập huấn, phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, truyền thanh, truyền hình…) nhằm tuyên truyền, nêu gương tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực. Phát huy ý chí tự lực tự cường và vươn lên của đồng bào dân tộc thiểu số nhằm thoát nghèo bền vững; vươn lên làm giàu chính đáng; tạo ra các phong trào thi đua sôi nổi trong lao động, sản xuất. Chú trọng sử dụng ngôn ngữ dân tộc thiểu số trong công tác tuyên truyền. Tăng cường phát huy vai trò của người có uy tín, già làng, trưởng bản, nghệ nhân dân gian trong công tác tuyên truyền vận động đồng bào dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội theo tinh thần của nghị quyết và chấp hành chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Thứ hai, xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 11-NQ/TW và Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 23/6/2021 của Ban Bí thư khóa XIII về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giảm nghèo bền vững đến năm 2030. Xác định phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo bền vững là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của cấp ủy đảng và cả hệ thống chính trị, trọng tâm là tăng cường liên kết vùng, khu vực, thu hút đầu tư và khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của từng địa phương để phát triển bền vững về kinh tế - xã hội; bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc; tập trung giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức thiết trong vùng, khu vực, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách gắn với việc triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 theo tinh thần Nghị quyết 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019, Nghị quyết 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội; Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ về Chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Thứ ba, đẩy nhanh hoàn thành phê duyệt quy hoạch tỉnh và các quy hoạch trong đó chú trọng liên kết vùng về giao thông, điện, hạ tầng xã hội, như: giáo dục, y tế và tận dụng tối đa cơ hội chuyển đổi số trong liên kết. Tập trung thực hiện hiệu quả 3 đột phá chiến lược để phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của tỉnh đó là: (1) Xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông; (2) Phát triển du lịch, nông nghiệp đặc trưng hàng hóa chất lượng cao theo chuỗi giá trị; (3) Tạo sinh kế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, trong đó nghiên cứu ban hành các cơ chế, chính sách thực hiện phù hợp với thực tiễn có trọng tâm, trọng điểm.
Lấy phát triển sản xuất, nâng cao đời sống và thu nhập của người dân làm mục tiêu cốt lõi, từ đó thu hẹp nhanh hơn khoảng cách chênh lệch về phát triển giữa các vùng trong tỉnh; hoàn thiện kết cấu hạ tầng thiết yếu là nhiệm vụ ưu tiên thực hiện nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất, nâng cao điều kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân; phát huy vai trò chủ thể của chính cộng đồng, người dân và tinh thần nỗ lực vươn lên của đồng bào dân tộc thiểu số là giải pháp trung tâm để triển khai thực hiện.
Đẩy mạnh phát triển sản xuất, khai thác tiềm năng, lợi thế, đổi mới sáng tạo, nâng cao thu nhập, ổn định đời sống của đồng bào các dân tộc; giảm số xã, thôn có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn; quy hoạch sắp xếp ổn định dân cư; xây dựng hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ; phát triển toàn diện giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc thiểu số, từng bước xóa bỏ các phong tục tập quán lạc hậu, giảm thiểu tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống; thực hiện bình đẳng giới và quan tâm giải quyết những vấn đề cấp thiết trong cuộc sống đối với phụ nữ và trẻ em; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số có đủ về cơ cấu, phẩm chất, năng lực đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc; bảo đảm quốc phòng, an ninh trật tự, an toàn xã hội, nhất là an ninh nông thôn xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, nâng cao niềm tin của đồng bào các dân tộc đối với Đảng và Nhà nước.
Thực hiện Chương trình hỗ trợ xây dựng nhà ở cho cựu chiến binh nghèo, người có công, gia đình chính sách, hộ nghèo có khó khăn về nhà ở, trong gần 3 năm (từ tháng 7/2019 - 2021) toàn tỉnh đã hoàn thành 5.233 căn nhà với tổng kinh phí xã hội hóa trên 308 tỷ đồng (Ảnh: Duy Tuấn) |
Thứ tư, tiếp tục triển khai lồng ghép các chính sách của Trung ương và của tỉnh: Tiếp tục khai thác, phát huy tối đa các tiềm năng, nguồn lực để phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện của từng vùng. Phát triển các vùng chuyên canh cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương. Thực hiện tốt công tác khuyến nông, khuyến lâm, chuyển giao kiến thức, kỹ năng, áp dụng tiến bộ kỹ thuật nhằm nâng cao trình độ, năng lực sản xuất cho đồng bào các dân tộc thiểu số; đầu tư xây dựng và nhân rộng các mô hình sản xuất có hiệu quả. Hỗ trợ xây dựng các tổ kinh tế hợp tác, hợp tác xã để giúp người dân liên kết sản xuất, kinh doanh theo chuỗi giá trị hàng hóa. Thực hiện có hiệu quả Đề án mỗi xã một sản phẩm ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là đường giao thông, công trình thủy lợi cấp nước cho vùng cao, chợ, trường học, trạm y tế, nhà văn hoá phải được kiên cố hoá; bảo đảm các hộ gia đình dân tộc thiểu số được sử dụng điện lưới quốc gia, dịch vụ phát thanh, truyền hình, viễn thông, tiếp cận công nghệ thông tin, chuyển đổi số phục vụ nhu cầu sản xuất, sinh hoạt.
Thứ năm, ưu tiên phát triển đào tạo nghề nghiệp cho đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi, nhất là thanh niên dân tộc thiểu số: Ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất cho một số trung tâm học tập cộng đồng trọng điểm vùng dân tộc thiểu số. Quan tâm đào tạo nghề và sắp xếp việc làm cho người lao động gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu việc làm theo hướng thu hút lao động người dân tộc thiểu số vào các cơ sở sản xuất, tham gia các ngành nghề phi nông nghiệp, dịch vụ du lịch.
Đẩy mạnh hoạt động hợp tác giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp theo phương châm gắn kết chặt chẽ 3 nhà: Nhà nước - Nhà trường - Nhà doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu nhân lực trực tiếp cả về quy mô và chất lượng đào tạo tại các xã đặc biệt khó khăn, xã thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi, hỗ trợ đào tạo góp phần nâng cao chất lượng nguồn lao động, tạo việc làm gắn với tăng thu nhập, cải thiện sinh kế và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động, người nghèo.
Tỉnh Hà Giang kiến nghị, đề xuất với Trung ương ưu tiên chỉ đạo hỗ trợ:
Sớm lập quy hoạch vùng trung du và miền núi Bắc bộ đến năm 2030, tầm nhìn 2045 để định hướng và liên kết phát triển kinh tế - xã hội theo tinh thần Nghị quyết số 11-NQ/TW; trong đó, ưu tiên đầu tư sớm, đồng bộ về kết cấu hạ tầng, kỹ thuật (đặc biệt là đường cao tốc, sân bay, kết nối hạ tầng lưới điện quốc gia); hạ tầng về xã hội phục vụ vùng, như: y tế, giáo dục, xây dựng các trường đại học, bệnh viện khu vực để khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế cũng như hỗ trợ, kết hợp giữa các địa phương cùng phát triển nhanh, bền vững.