Có nên quy định triết lý giáo dục trong Luật Giáo dục sửa đổi?
(ĐCSVN)- Từ kết quả nghiên cứu bước đầu, nhóm thực hiện Đề tài đề xuất, Việt Nam cần phải có tuyên bố rõ ràng về những tư tưởng triết lý trong Luật Giáo dục sửa đổi qua những điều khoản cụ thể chứ không nên tách thành một chương riêng trong Luật.
Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ chủ trì Tọa đàm "Triết lý giáo dục và triết lý giáo dục trong Luật Giáo dục (sửa đổi)”. Ảnh: ĐL
Bộ Giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) vừa phối hợp với Trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh) tổ chức Tọa đàm khoa học “Triết lý giáo dục và Triết lý giáo dục trong Luật Giáo dục sửa đổi”. Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ chủ trì Tọa đàm.
Đây là một hoạt động trong khuôn khổ thực hiện Đề tài “Triết lý giáo dục Việt Nam: từ truyền thống đến hiện đại” do Trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh thực hiện.
Các nước không tuyên bố rõ ràng triết lý giáo dục trong luật
Tại cuộc Tọa đàm, thay mặt nhóm thực hiện Đề tài cấp Nhà nước “Triết lý giáo dục Việt Nam: Từ truyền thống đến hiện tại”, GS.TSKH Trần Ngọc Thêm - Chủ nhiệm Đề tài đã báo cáo kết quả bước đầu của Đề tài liên quan đến Luật Giáo dục sửa đổi.
Theo đó, Việt Nam là một trong những quốc gia dành sự quan tâm rất lớn cho việc tìm hiểu Triết lý giáo dục, bằng chứng thể hiện qua số lượng lượt truy cập qua google để tìm hiểu cụm từ “Triết lý giáo dục” bằng tiếng Việt chỉ đứng sau tiếng Anh và cao hơn nhiều so với tiếng Trung và tiếng Nga.
Theo GS.TSKH Trần Ngọc Thêm, có ba lý do chính dẫn đến sự quan tâm về triết lý giáo dục, đó là do những “sự cố giáo dục” (khởi đầu từ những vụ bê bối trong các kỳ thi tốt nghiệp vào các năm 2006-2013); một loạt hội thảo, tọa đàm bàn về triết lý giáo dục trong các năm 2007-2011 đã tạo nên một cú hích; các cuộc thảo luận liên quan đến giáo dục nói chung và triết lý giáo dục nói riêng trên diễn đàn Quốc hội trong những năm gần đây.
Ở Việt Nam đã hình thành hai luồng ý kiến: Luồng ý kiến thứ nhất cho rằng, nguyên nhân gốc của tình trạng gia tăng “sự cố giáo dục” nằm ở triết lý giáo dục với hai quan niệm: thứ nhất là do Việt Nam thiếu (chưa có hoặc không có) triết lý giáo dục; thứ hai là do ta có triết lý giáo dục nhưng triết lý đó chưa chính xác.
Luồng ý kiến thứ hai cho rằng, nguyên nhân gốc của tình trạng gia tăng “sự cố giáo dục” không nằm ở triết lý giáo dục: Việt Nam có triết lý giáo dục và triết lý đó không sai; tình trạng “sự cố” là do khâu triển khai, thực hiện triết lý giáo dục chưa tốt.
Cũng theo nghiên cứu, do nhu cầu và hoàn cảnh của mỗi nước khác nhau, cho nên việc thể hiện tư tưởng triết lý trong luật giáo dục của các nước là bức tranh rất đa dạng. Nhìn chung, các nước không tuyên bố rõ ràng về triết lý giáo dục trong luật. Ngoài mục đích, trong luật giáo dục của các nước thường có những điều khoản về các thành tố quan trọng khác của triết lý giáo dục như mục tiêu, nguyên lý, trong đó mục tiêu luôn là thành tố xuất hiện phổ biến nhất.
Từ kết quả nghiên cứu bước đầu, nhóm thực hiện Đề tài đề xuất, Việt Nam cần phải có tuyên bố rõ ràng về những tư tưởng triết lý trong Luật Giáo dục qua những điều khoản cụ thể chứ không nên tách thành một chương riêng trong Luật. Nhóm nghiên cứu gợi ý có thể đặt tên là “mục đích, mục tiêu, nguyên lý giáo dục” chứ không gọi thẳng là triết lý giáo dục, vì không phải ngẫu nhiên mà không nước nào làm thế.
Về các thành tố trong cấu trúc của triết lý giáo dục, GS.TSKH Trần Ngọc Thêm cho biết: Cấu trúc phổ biến của khái niệm “Triết lý giáo dục” gồm năm thành tố. Trong đó, "sứ mệnh giáo dục" là thành tố gốc; còn "mục tiêu giáo dục" là thành tố trung tâm, cốt lõi, trực tiếp chi phối ba thành tố còn lại (nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục và nguyên lý giáo dục).
Không nên có quy định riêng về triết lý giáo dục trong văn bản luật
Nhìn nhận tầm quan trọng của triết lý giáo dục, TS Phạm Đỗ Nhật Tiến cho rằng, một triết lý giáo dục đúng là điều kiện đảm bảo đầu tiên để giáo dục thực thi thành công sứ mệnh của mình đối với sự phát triển của đất nước.
Không đồng tình với quan điểm cho rằng, Việt Nam không có triết lý giáo dục, TS Phạm Đỗ Nhật Tiến khẳng định, giáo dục Việt Nam từ trước đến nay vẫn vận động dưới sự dẫn dắt của một triết lý giáo dục. Cũng như một số nước trên thế giới, triết lý này được biểu hiện thông qua những phát biểu tường minh về sứ mệnh, mục tiêu, nguyên lý giáo dục.
Theo TS Phạm Đỗ Nhật Tiến, trong 32 năm đổi mới giáo dục vừa qua, triết lý giáo dục Việt Nam có sự vận động cùng với bước tiến về kinh tế - xã hội của đất nước, được quy định trong các quan điểm chỉ đạo của Đảng về phát triển giáo dục, và được thể chế hóa trong các văn bản luật, từ Luật Giáo dục 1998, đến Luật Giáo dục 2005, Luật Giáo dục đại học 2012, Luật Giáo dục nghề nghiệp 2014.
Trong giai đoạn phát triển hiện nay, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, triết lý giáo dục Việt Nam được quy định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) và đã được thể chế hóa trong các quy đinh về mục tiêu, nguyên lý, định hướng phát triển giáo dục trong Luật Giáo dục 2005 cũng như trong các quy định tương ứng của Luật Giáo dục đại học và Luật Giáo dục nghề nghiệp.
Trước câu hỏi, nên hay không có quy định riêng về triết lý giáo dục trong Luật Giáo dục? TS Phạm Đỗ Nhật Tiến cho biết, theo thông lệ quốc tế, không có quy định riêng nào về triết lý giáo dục trong văn bản luật, nên trong tiến trình xây dưng Luật Giáo dục sửa đổi, không nên đặt vấn đề có một quy định về triết lý giáo dục. Vấn đề chỉ là ở chỗ xem xét chỉnh sửa, bổ sung các quy định về mục tiêu, nguyên lý và định hướng phát triển giáo dục trong Luật Giáo dục để thể chế hóa một cách phù hợp các chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam trong bối cảnh mới.
Phát biểu tiếp thu tại Tọa đàm, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ khẳng định, những vấn đề được các nhà khoa học, nhà giáo, các học giả có uy tín, kinh nghiệm và tâm huyết với giáo dục đề cập tại Tọa đàm đã gợi mở rất nhiều nội dung quan trọng về triết lý giáo dục để Ban soạn thảo Luật Giáo dục sửa đổi tiếp thu và hoàn thiện.
Bộ trưởng mong rằng, thời gian tới, sẽ tiếp tục nhận được các ý kiến góp ý tâm huyết của các nhà khoa học, nhà giáo, các học giả, nhà quản lý không chỉ xung quanh nội dung triết lý giáo dục, dự thảo Luật Giáo dục sửa đổi mà còn với các chính sách khác của ngành./.