Chôn lấp, xử lý rác thải đúng cách có thể tạo ra tài nguyên không gian
(ĐCSVN) - Theo ông Tạ Đình Thi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, cần có chính sách để tái chế, tái sử dụng chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH). Phần lớn các chất này đều có thể tái chế, tái sử dụng, thu hồi năng lượng và chôn lấp. Nếu việc chôn lấp được thực hiện đúng quy cách cũng có thể tạo ra tài nguyên không gian.
Chiều 7/3, tại Hà Nội, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức Tọa đàm trực tuyến “Mô hình, giải pháp quản lý chất thải rắn sinh hoạt và giảm chất thải nhựa tại các đô thị”.
Các đại biểu tham dự Tọa đàm |
Đưa chính sách, đặc biệt là Luật Bảo vệ môi trường 2020 vào cuộc sống
Chia sẻ tại Tọa đàm về việc thu gom, xử lý chất thải, ông Tạ Đình Thi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cho biết: Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt quá trình đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng. Hiện nay, chúng ta đang đối mặt với nhiều vấn đề về môi trường, trong đó có chất thải rắn. Trong chất thải rắn thì chất thải đô thị, sinh hoạt và rác thải nhựa là những vấn đề gây bức xúc.
Việt Nam là một trong những quốc gia có lượng chất thải rắn lớn, phát sinh từ các khu đô thị, nông thôn và khu công nghiệp. Theo ước tính năm 2019, chất thải rắn sinh hoạt tại các đô thị là khoảng gần 36 nghìn tấn/ngày, ở nông thôn là hơn 28 nghìn tấn/ngày. Tổng khối lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh ở cả khu vực đô thị và nông thôn năm 2019 đã tăng khoảng 50% so với năm 2010.
Theo ông Tạ Đình Thi, nguyên nhân chính của mức tăng đáng kể này là do những yếu tố khách quan, chủ quan của quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa gắn liền với phương thức sản xuất hàng hóa, tiêu dùng, phân phối, cách thức quản lý, năng lực phân loại, thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải và ý thức của người dân cũng như doanh nghiệp.
Ông Tạ Đình Thi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội phát biểu tại Tọa đàm |
Ông Thi cũng cho hay, chất thải rắn sinh hoạt ở nước ta hiện nay, có khoảng 20% là chất thải có thể tái chế; 60% chất thải hữu cơ có thể làm compost, phân vi sinh, biogas ... còn lại là chất thải khác có thể đem thiêu đốt thu nhiệt hoặc chôn lấp. Như vậy cần có chính sách để tái chế, tái sử dụng. “Phần lớn các thành phần trong chất thải rắn sinh hoạt đều có thể tái chế, tái sử dụng, thu hồi năng lượng và chôn lấp. Nếu việc chôn lấp được thực hiện đúng quy cách cũng có thể tạo ra tài nguyên không gian”, ông Thi nêu rõ.
Theo ông Thi, đối với chất thải nhựa, theo Ngân hàng Thế giới (World Bank) đến nay, chúng ta chỉ tái chế khoảng 33% các nhựa chính (PE, PP, PET, HDPE).
Mặt khác, trong các loại chất thải thì chất thải rắn sinh hoạt khó quản lý và xử lý triệt để nhất do ý thức của đa số người dân còn chưa cao, hệ thống phân loại, thu gom, vận chuyển và xử lý còn nhiều hạn chế. Đặc biệt, tại các đô thị lớn có tốc độ đô thị hóa cao, các khu vực phát triển công nghiệp nhanh, nguồn phát sinh chất thải rắn sinh hoạt tăng nhanh trong các năm gần đây và nhiều nơi không thể tìm thêm được địa điểm chôn lấp mới trong khi chưa có các công nghệ xử lý tiên tiến thay thế, người dân chưa thực hiện việc phân loại chất thải rắn tại nguồn.
“Ðể giải quyết vấn đề chất thải rắn, giảm thiểu nguy cơ gây ô nhiễm và suy thoái môi trường, và nguy cơ cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, Việt Nam đã ban hành và tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật liên quan. Điều đáng lưu ý là nước ta cũng như nhiều nước trong khu vực đang từng bước chuyển dịch từ các mô hình "kinh tế tuyến tính" sang "kinh tế tuần hoàn" với mục tiêu phát triển bền vững đất nước. Chúng ta đã luật hóa nội dung kinh tế tuần hoàn trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020”, ông Thi chia sẻ.
Ngoài ra theo ông Tạ Đình Thi, Luật cũng quy định rõ trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh trong việc thực hiện lồng ghép kinh tế tuần hoàn ngay từ giai đoạn xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án phát triển, quản lý, tái sử dụng, tái chế. Tư duy về kinh tế tuần hoàn này cũng được lồng ghép trong các điều, khoản khác như đẩy mạnh chi tiêu công xanh (GPP), mở rộng trách nhiệm của nhà sản xuất (EPR), phát triển ngành công nghiệp môi trường, dịch vụ môi trường.
Việc quản lý chất thải rắn sinh hoạt được chú trọng giải quyết ngay tại nguồn, việc giảm thiểu, phân loại, tái chế, tái sử dụng và thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn. Theo quy định tại khoản 1 Điều 75 và khoản 7 Điều 79 Luật Bảo vệ môi trường, việc phân loại chất thải rắn tại nguồn phải được thực hiện chậm nhất là ngày 31/12/2024.
Mặt khác, chúng ta cũng đang tích cực tham gia đàm phán, xây dựng Thỏa thuận toàn cầu về ô nhiễm nhựa nhằm mục tiêu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Việt Nam, trên cơ sở quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và các quy định của pháp luật hiện hành. “Như vậy vấn nạn rất rõ, mấu chốt là làm sao đưa chính sách pháp luật, và đặc biệt là Luật Bảo vệ môi trường 2020 vào cuộc sống”, ông Thi cho hay.
Người dân ven biển chịu tổn thương nhiều nhất về ô nhiễm chất thải nhựa
Đánh giá về chất thải nhựa đang là một hiểm họa đến hệ sinh thái đại dương của Việt Nam, ông Nguyễn Đức Toàn, Cục trưởng Cục Biển và Hải đảo Việt Nam chia sẻ: Rác thải nhựa đại dương luôn là mối quan tâm khẩn thiết trong nhiều năm qua.
Chúng ta đang đối diện với hiện trạng lượng rác thải đổ vào đại dương ngày một gia tăng, làm ảnh hưởng đến hệ sinh thái của đại dương, đồng thời đe dọa đến môi trường, xã hội và sức khoẻ của con người. “Có một đặc thù tiếp nhận của đại dương khác với đất liền là đại dương nơi tiếp nhận chất thải cuối cùng của con người. Nếu đại dương không được làm sạch thì không những ảnh hưởng đến hệ sinh thái mà sẽ trở thành hiểm hoạ đến môi trường, ông Toàn nêu rõ.
Cũng theo ông Toàn, hiện tại nhựa đại dương không còn chỉ là vấn đề của một quốc gia hay một cá thể nào, mà còn là thách thức của toàn cầu. Chính vì vậy, ảnh hưởng của nó mang tính chất tổng thể và không có giới hạn. “Nó ảnh hướng đến hệ sinh thái, ảnh hưởng hoạt động của sinh vật biển, không những thế còn ảnh hưởng đến sức khoẻ con người thông qua chuỗi thức ăn và hoạt động kinh tế, đặc biệt là sinh kế của người dân. Chúng tôi cho rằng người dân ven biển đang phải chịu tổn thương nhiều nhất”, ông Toàn cho hay.
Ông Nguyễn Đức Toàn, Cục trưởng Cục biển và Hải đảo Việt Nam, Giám đốc Dự án Giảm thiểu rác thải nhựa đại dương tại Việt Nam phát biểu tại Tọa đàm |
Ông Toàn cũng cho biết, nguồn gốc chính của rác thải nhựa đại dương là từ đất liền và trên biển. Đến nay cũng chưa có số liệu chắc chắn về việc đại dương của chúng ta một năm tiếp nhận bao nhiêu tấn rác thải và ở Việt Nam. Nguồn phát sinh chất thải nhựa ra biển từ nguồn đánh bắt môi trường hải sản, từ trên tàu, từ hoạt động du lịch…
Ông Toàn nhấn mạnh, để giảm thiểu rác thải nhựa đại dương, ngoài việc chúng ta cần phải tập trung thu gom, xử lý rác thải nhựa trên đất liền, cần lưu ý, mặc dù chỉ là ô nhiễm vùng nhỏ nhưng cũng ảnh hưởng rộng đến các vùng khác. Bởi vậy, xử lý rác thải nhựa đại dương phải là xử lý về mặt tổng thể.
Trong thời gian qua, tại Việt Nam, thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, Chính phủ, các cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung ương và địa phương đã phối hợp cùng với các tổ chức trong và ngoài nước thực hiện nhiều giải pháp thông qua các dự án, các chương trình hành động cụ thể.
Áp dụng hiệu quả nhiều mô hình quản lý chất thải tại địa phương
Chia sẻ về sự chủ động và hành động quyết liệt của các tỉnh, thành phố, đặc biệt là tỉnh Quảng Trị trong việc xây dựng các mô hình quản lý CTRSH và giảm chất thải nhựa, ông Hà Sỹ Đồng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị cho hay: Sự chủ động và hành động quyết liệt của các địa phương trên cả nước nói chung, trong đó có tỉnh Quảng Trị nói riêng trong việc xây dựng các mô hình quản lý và xử lý rác thải nhựa có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra môi trường trong sạch cho người dân, giảm ảnh hưởng đến các ngành kinh tế như du lịch, giao thông vận tải, thuỷ sản, nông nghiệp, góp phần xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững của các địa phương; đặc biệt là những đóng góp tích cực, hiệu quả cho môi trường biển, hải đảo, triển khai Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và Đề án tăng cường công tác quản lý chất thải nhựa tại Việt Nam và Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương và nhiều chương trình mục tiêu quan trọng khác của quốc gia trong giai đoạn hiện nay
Tại Quảng Trị, thời gian qua, trên cơ sở chủ trương, định hướng của quốc gia, tỉnh đã chủ động ban hành các chương trình, kế hoạch hành động cụ thể phù hợp với tình hình thực tiễn ở địa phương.
Hiện nay, tình hình triển khai thiết lập hệ thống thu gom xử lý CTSH trên địa bàn toàn tỉnh rất hiệu quả, ở khu vực đô thị đạt 90%, ở khu vực nông thôn đạt trên 60%; tất cả các thành phố, huyện, thị xã, 10 đơn vị hành chính trên địa bàn đều có bãi chôn lấp rác hợp vệ sinh, đầu tư các lò đốt rác thải sinh hoạt.
Đặc biệt, tỉnh cũng đã quy hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2021 - 2030 tầm nhìn đến năm 2050 về các việc thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt, cũng như kế hoạch phân rác tại nguồn, cải tiến nâng cao chất lượng hệ thống xử lý chất thải rắn sinh hoạt cũng như chất thải nhựa, để thực hiện thành công chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới (NTM). Trong các tiêu chí xã đề xuất đạt chuẩn NTM và NTM nâng cao phải có tiêu chí về môi trường rất cụ thể, nên người dân cũng dần nâng cao ý thức, có trách nhiệm trong thu gom rác thải trong nhà, trong vườn, trong các sản phẩm, đảm bảo an toan toàn vệ sinh môi trường.
Ông Hà Sỹ Đồng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị phát biểu tại Tọa đàm |
Cũng theo Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị, bên cạnh những kết quả đạt được, tỉnh Quảng Trị cũng tham khảo, thực hiện các mô hình của các địa phương khác trong việc thực hiện các giải pháp về quản lý chất thải rắn có hiệu quả như giảm thiểu chất thải nhựa. Tuy nhiên, nguồn lực của địa phương rất khó khăn, nhất là công tác phân loại, xử lý, tái chế, giảm thiểu rác thải nhựa còn đặt ra nhiều thách thức đối với các cơ quan quản lý. Vì vậy rất cần sự hỗ trợ về nguồn lực của Chính phủ, các bộ, ngành về khoa học công nghệ, để đóng góp tích cực trong việc thực hiện thành công mục tiêu và chiến lược quốc gia về quản lý, xử lý chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn 2050; xây dựng mô hình kinh tế tuần hoàn bền vững, xã hội phát triển.
Trao quyền cho UBND cấp tỉnh trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt
Liên quan việc thực hiện quy trình phân loại chất thải rắn sinh hoạt, ông Hoàng Văn Thức, Cục trưởng Cục Kiểm soát ô nhiễm môi trường (Bộ TN&MT) nêu rõ: Với tình hình gia tăng số lượng CTRSH như hiện nay, thống kê thời điểm cuối năm 2019 khoảng 23,6 triệu tấn, đến cuối năm 2023 phát sinh 24,5 triệu tấn rác thải rắn sinh hoạt. Về cơ sở và công nghệ xử lý hiện nay, toàn quốc có 1.456 cơ sở xử lý CTRSH, trong đó có 7 cơ sở đốt CTRSH có phát điện; 7 dự án đốt rác phát điện; 476 cơ sở đốt CTR không phát điện, 951 cơ sở chôn lấp CTRSH.
Về công nghệ xử lý, theo số liệu năm 2019 có 70% rác thải chôn lấp, con số này hiện đã giảm xuống còn khoảng 64%. Các địa phương đã rất nỗ lực để giảm tỷ lệ này. “Theo Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia, mục tiêu đến năm 2030 toàn quốc giảm tỷ lệ CTRSH chôn lấp trực tiếp xuống còn dưới 30%. Đây là áp lực rất lớn cho ngành và các địa phương”, ông Thức chia sẻ.
Ông Hoàng Văn Thức, Cục trưởng Cục Kiểm soát ô nhiễm môi trường phát biểu tại Tọa đàm |
Theo Cục trưởng Cục Kiểm soát ô nhiễm môi trường, nguyên tắc phân loại đối với CTRSH đã được quy định tại Luật BVMT năm 2020 và được hướng dẫn chi tiết tại Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường.
Từ thực tế triển khai thí điểm phân loại CTRSH tại các địa phương trong thời gian vừa qua, có thể thấy rằng việc triển khai công tác phân loại chỉ đạt được hiệu quả khi có sự chung tay của các cấp các ngành từ trung ương đến địa phương, đặc biệt là UBND các cấp tại từng địa phương. Chính vì vậy, một trong những điểm mới của Luật BVMT năm 2020 là trao quyền chủ động cho UBND cấp tỉnh trong công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt, cụ thể là công tác phân loại chất thải rắn sinh hoạt với lộ trình phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương mình, đảm bảo thực hiện trước ngày 31/12/2024.
Theo ông Hoàng Văn Thức, để đồng hành với địa phương trong triển khai, đảm bảo việc thực hiện phân loại chất thải rắn sinh hoạt đáp ứng theo yêu cầu và lộ trình theo quy định tại Luật Bảo vệ môi trường, trong thời gian qua Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Văn bản số 9368/BTNMT-KSONMT ngày 02/11/2023 hướng dẫn kỹ thuật phân loại CTRSH. Hướng dẫn này đưa ra nhận diện tối đa chủng loại CTRSH phát sinh từ hộ gia đình, cá nhân và phân loại thành 3 nhóm chất thải chính theo đúng quy định tại Khoản 1 Điều 75 Luật Bảo vệ môi trường...
Trong năm 2024, Bộ TN&MT sẽ tiếp tục xây dựng hướng dẫn phương pháp định giá dịch vụ thu gom, vận chuyển CTRSH; quy định định mức kinh tế, kỹ thuật về thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH; hướng dẫn, hỗ trợ UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng xây dựng kế hoạch và triển khai đồng bộ hoạt động phân loại CTRSH tại hộ gia đình, cá nhân. Đồng thời, đồng hành cùng với các Bộ, ngành, địa phương trong việc tăng cường tuyên truyền, vận động, hướng dẫn nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng về quản lý CTRSH, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức, xây dựng lối sống thân thiện với môi trường của người dân.
“Điều cốt lõi để thực hiện thành công quy định về phân loại CTRSH là cần có sự quyết tâm của các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị-xã hội, sự đồng lòng của người dân trong công tác phân loại CTRSH. Vì vậy, ngay từ bây giờ UBND các cấp tại từng địa phương trên cả nước cần xây dựng kế hoạch và chuẩn bị nguồn lực để từng bước đưa công tác phân loại chất thải rắn sinh hoạt đi vào thực tế, cụ thể”, ông Hoàng Văn Thức cho hay.
Để giảm thiểu ô nhiễm môi trường, hạn chế những tác động tiêu cực đến sức khỏe con người từ rác thải sinh hoạt, ông Hoàng Văn Thức nêu rõ: Quản lý chất thải rắn sinh hoạt là vấn đề phải thực hiện quyết liệt, thường xuyên, đồng bộ, thống nhất và có sự chung tay của nhiều cấp, nhiều ngành, của người dân, doanh nghiệp cùng toàn xã hội.
Để hướng tới một nền kinh tế tuần hoàn, đạt được các mục tiêu kỳ vọng của Chính phủ như đã đề ra tại Chiến lượng Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Bộ TN&MT đã và đang đề xuất, tham mưu Chính phủ nhiều giải pháp như: Tập trung triển khai đồng bộ hiệu quả Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và các văn bản hướng dẫn thi hành nhằm tăng cường thu gom, tái sử dụng, tái chế và thu hồi vật liệu từ sản phẩm thải bỏ; tăng cường tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng về quản lý CTRSH, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức, xây dựng lối sống thân thiện với môi trường của người dân.
Huy động mọi nguồn lực đầu tư cho công tác quản lý, xử lý chất thải. Đẩy mạnh xã hội hoá công tác thu gom, vận chuyển và vận hành cơ sở xử lý CTRSH; tăng dần nguồn thu từ tổ chức, cá nhân phát sinh chất thải, đồng thời giảm dần hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước cho hoạt động thu gom, vận chuyển CTRSH. Triển khai áp dụng giá dịch vụ xử lý CTRSH, có lộ trình điều chỉnh giá nhằm từng bước đáp ứng yêu cầu về bù đắp chi phí quản lý vận hành và đầu tư xây dựng cơ sở xử lý CTRSH.
Ngoài ra, cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH để phòng ngừa cũng như kịp thời phát hiện và xử lý các vi phạm, ngăn ngừa nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Nghiên cứu phát triển công nghệ xử lý CTRSH theo hướng giảm thiểu lượng CTRSH chôn lấp, tăng cường tỷ lệ tái chế, tái sử dụng và thu hồi năng lượng từ chất thải. Đẩy mạnh việc xây dựng các mô hình điểm về tái chế, tái sử dụng và thu hồi năng lượng từ CTRSH nhằm lựa chọn các mô hình phù hợp để nhân rộng trên phạm vi cả nước. Áp dụng các công nghệ tái chế hiện đại, thân thiện với môi trường thay thế các công nghệ cũ, lạc hậu ở các cơ sở tái chế.
Chủ động đề xuất, xây dựng cơ chế và nội dung hợp tác song phương và đa phương, trao đổi kinh nghiệm trong công tác quản lý, xử lý chất thải. Tiếp tục kêu gọi, thu hút đầu tư nước ngoài tham gia phát triển cơ sở hạ tầng, nhà máy phục vụ quản lý, xử lý chất thải. Tiếp nhận hỗ trợ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ và đào tạo trong hoạt động tái chế, tái sử dụng thu hồi năng lượng từ chất thải…
Nhiều mô hình, giải pháp dựa vào cộng đồng được triển khai
Liên quan việc sản xuất, tiêu thụ và thải bỏ chất thải, cụ thể là chất thải nhựa đang gây những tác động tiêu cực đáng kể, ông Văn Ngọc Thịnh, Tổng Giám đốc Tổ chức Quốc tế về bảo tồn thiên nhiên (WWF) cho biết: Với sự đi lên của khoa học, công nghệ cũng như sự phát triển của kinh tế - xã hội, thì mức tiêu dùng bình quân đầu người trên thế giới cũng như tại Việt Nam đã gia tăng nhanh chóng so với trước kia. Song song với đó là lượng chất thải phát sinh nhiều hơn. Trong đó thì chất thải nhựa đang nhận được nhiều sự quan tâm.
Ông Văn Ngọc Thịnh, Tổng Giám đốc Tổ chức Quốc tế về bảo tồn thiên nhiên (WWF) phát biểu tại Tọa đàm |
Ô nhiễm nhựa có thể nói là một trong những vấn đề môi trường cấp bách nhất hiện nay. Do có nhiều ưu điểm và công dụng khác nhau nên nhựa ngày càng được sử dụng rộng rãi trong hàng triệu ứng dụng. Ước tính giá thị trường mà các nhà sản xuất chi trả cho nhựa nguyên sinh năm 2019 là khoảng 370 tỷ đô la Mỹ - một mức giá được cho là khá rẻ.
Tuy nhiên theo nghiên cứu của WWF quốc tế, lý do chi phí nhựa rẻ như hiện nay là bởi chưa bao gồm những chi phí phát sinh do tác động tiêu cực trong suốt vòng đời của nhựa.
Ngoài ra, mức chi phí tối thiểu theo vòng đời của nhựa cao hơn nhiều so với giá thị trường, và chúng ta đang gánh chịu những chi phí phát sinh ngoại vi phát sinh từ hệ thống sản xuất và tiêu dùng nhựa chưa phù hợp hiện nay.
Theo ông Văn Ngọc Thịnh, với việc có nhiều mục đích sử dụng, có độ bền cao, đồng nghĩa với việc những chi phí ngoại vi này sẽ phát sinh trong thời gian dài. Nhựa mất hàng trăm đến hàng nghìn năm để phân huỷ hoàn toàn và khi phân rã ra sẽ phân huỷ thành hạt nhựa siêu nhỏ. Điều này khiến nhựa khó thu hồi và loại bỏ một khi chúng bị thải vào môi trường. Do vậy, cuộc khủng hoảng về nhựa thực sự khác biệt với các vật liệu khác vốn cũng có các chi phí ngoại vi không bao gồm trong giá thị trường của chúng...
Chia sẻ về các giải pháp và công tác quản lý chất thải rắn tại địa phương, Tổng Giám đốc WWF tại Việt Nam cũng cho biết: WWF cũng như các tổ chức khác đã phối hợp và hỗ trợ nhiều địa phương triển khai các dự án, mô hình, giải pháp nhằm nâng cao công tác quản lý, thu gom, phân loại - xử lý rác, tăng tỷ lệ thu hồi rác tái chế; tích cực tuyên truyền, giáo dục... trong thời gian qua.
Các Dự án của WWF với các địa phương, bên cạnh việc hỗ trợ triển khai các quy định và chính sách tại địa phương, cải thiện hệ thống thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt và chất thải nhựa, WWF cũng đã tập trung vào việc xây dựng và triển khai thí điểm các mô hình và giải pháp dựa vào nguồn lực của cộng đồng.
Đồng thời, khuyến nghị các địa phương triển khai các giải pháp và mô hình dựa vào cộng đồng, song song với việc hoàn thiện hệ thống quản lý và đồng bộ cơ sở hạ tầng như: Ưu tiên thực hiện ngay từ các cơ quan, đơn vị hành chính giảm sử dụng túi ni-lông khó phân hủy và sản phẩm nhựa dùng một lần; Tổ chức các phong trào cộng đồng tham gia xóa điểm nóng rác thải, ngăn chặn chất thải thất thoát ra môi trường; Tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân và cộng đồng dân cư; Thúc đẩy các mô hình thu gom, phân loại rác tại nguồn trong cộng đồng, như mô hình “Ngư dân mang rác về bờ”, Giáo dục bằng hành động tại các hộ gia đình, hay mô hình “Trường học không rác thải nhựa”...
Bên cạnh đó, ông Văn Ngọc Thịnh cũng cho biết, có thể xem xét ưu tiên các giải pháp và mô hình có tầm nhìn và triết lý theo nguyên tắc “thuận thiên”. Đó là tôn trọng quy luật tự nhiên xuyên suốt quá trình thiết kế và triển khai các mô hình thích ứng theo tự nhiên, phù hợp với điều kiện thực tế. “Với triết lý này, các giải pháp và mô hình nhìn chung không chỉ giúp giảm và tối ưu chi phí đầu tư ban đầu, mà còn giúp giảm chi phí vận hành và duy trì trong lâu dài, cũng như hạn chế các can thiệp thô bạo vào tự nhiên và thúc đẩy phát triển bền vững theo phương châm con người chung sống hài hòa với thiên nhiên", ông Văn Ngọc Thịnh cho hay./.