Tục cưới hỏi của người Ba Na
(ĐCSVN) – Sinh sống lâu đời trên vùng đất tỉnh Gia Lai, đồng bào dân tộc Ba Na hình thành và lưu giữ một kho tàng văn hoá truyền thống đa dạng và phong phú, trong đó phong tục cưới hỏi là một hoạt động truyền thống đặc sắc, phản ánh đậm nét bản sắc văn hoá, tính ngưỡng của người Ba Na.
Trong đời sống cộng đồng người Ba Na, phong tục cưới hỏi có ý nghĩa rất quan trọng. Tùy thuộc vào từng vùng hay giai đoạn lịch sử phong tục cưới hỏi của người Ba Na có khác nhau đôi chút. Nhưng phong tục cưới hỏi của người Ba Na cơ bản vẫn giữ nét nguyên sơ, giàu tính nhân văn, thể hiện sắc thái văn hoá tộc người độc đáo.
Người Ba Na tuân thủ chế độ một vợ một chồng, đề cao sự thuỷ chung trong hôn nhân, khi đã thành vợ thành chồng nếu bên chàng trai bỏ cô gái sẽ phải đền cô gái một con trâu, một tạ heo và 50 rượu cần, và ngược lại bên cô gái cũng thế, phải nghe lời gia đình, nghe ông mai mối đưa lời thề, đã lấy nhau phải yêu thương nhau đến trọn đời.
Trai gái người Ba Na được tự do tìm hiểu, lựa chọn người mình yêu thương, khi đã thật sự yêu thương nhau họ quyết định tiến tới hôn nhân, bắt buộc phải thực hiện hai lễ tục đó là lễ trao vòng và lễ cưới.
Lễ trao vòng (lễ cật rêng) có ý nghĩa như lễ đính hôn của người Kinh, sau khi đôi trai gái sẽ về thưa với gia đình hai bên. Được hai bên gia đình ưng thuận chấp nhận hôn lễ, nhà trai sẽ tìm người mai mối tức “pơ ngai tơ roong”, phải là người đàn ông, am hiểu luật tục, giỏi ăn nói, có vai trò dẫn dẳt và điều hành buổi lễ. Ông mối sẽ mời nhà gái đến nhà trai để tiến hành làm lễ trao vòng cho đôi trẻ.
Trước sự chứng kiến của hai gia đình, dưới sự hướng dẫn của ông mối, đôi trai gái lần lượt trao vòng cho nhau. Thường thì chàng trai trao cho cô gái chiếc vòng nhôm, đổi lại, cô gái trao cho chàng trai chiếc vòng đồng. Ở tỉnh Kon Tum, tín vật đính hôn của chàng trai Ba Na cho cô gái còn có thêm một chuỗi hạt cườm đeo cổ. Ngoài tín vật đính hôn, đôi trai gái còn có thể tặng cho nhau những kỷ vật do chính tay mình làm ra.
Để tiến hành Lễ cưới (Pơ Koong), đồng bào Ba Na thường tổ chức vào cuối năm, sau mùa thu hoạch, trong tháng “khay ning nong”, tương đương với tháng 12 và tháng 1 Dương lịch, thời điểm nông nhàn, thóc lúa đã đầy kho, trâu bò đầy chuồng, gà đầy sân.
Nghi thức trao tín vật đính hôn của cô gái và chàng trai Ba Na. |
Để tiến hành Lễ cưới, đồng bào Ba Na thường chọn thời gian tổ chức lễ vào buổi chiều, ngày giữa tháng, trước sự chứng kiến của người dân bản làng và gia đình 2 họ.
Trong lễ cưới diễn ra nghi thức mời gọi các vị Yàng và tổ tiên về dự và chứng kiến buổi Lễ. Chủ Lễ đọc lời khấn: Ôi Yang… trên trời, Yang dưới đất, ông bà tổ tiên, người đã khuất hãy uống rượu ghè, ăn gan heo, gan gà, hôm nay gia đình tổ chức đám cưới cho hai cháu. Yang tốt, Yang thân cùng xem và cho phép hai cháu được lấy nhau, nên vợ nên chồng, gia đình khỏe mạnh, không ốm đau, làm ăn phát đạt...
Trong lễ cưới diễn ra nghi thức trùm chiếc chiếu cói, té nước, nghi thức đập bầu nước cho người ở dưới chiếu với quan niệm là để cặp đôi khi lấy nhau gia đình sẽ luôn hạnh phúc vui vẻ, mát mẻ như nước rừng. Sau các nghi thức già làng, ông mối sẽ chúc phúc cho đôi bạn trẻ trong lễ cưới khép lại phần Lễ.
Sau phần Lễ, là phần vui hội, già làng mời mọi người cùng uống rượu cần chung vui cùng gia đình, theo trình tự bắt đầu từ gia chủ, phụ nữ được ưu tiên trước rồi đến các thành viên trong gia đình rồi đến khách mời và người dân bạn làng tham dự lễ cưới.
Người dân bản làng quây quần ché rượu cần, thức ăn bày lên những chiếc lá Pơ - pang đặt trên những tấm phiên hay chiếc nong to. Cha mẹ cô dâu, chú rể đến từng ché để mời và cám ơn dân làng. Mọi người ăn uống, chuyện trò vui vẻ. Khi rượu uống đã say, chuyện nói đã đủ, dân làng chúc phúc đôi tân hôn và lần lượt ra về kết thúc một nghi lễ quan trọng của gia đình người Ba Na.
Nhìn chung, đám cưới của người Ba Na tôn trọng quyền tự do hôn nhân của con cái, không có tình trạng ép buộc hay gả bán. Lễ cưới có ý nghĩa to lớn trong việc kết nối cộng đồng, đồng thời góp phần cho bức tranh văn hoá truyền thống dân tộc Ba Na thêm đa dạng và lung linh sắc mầu.