Tái cơ cấu ngành hàng lúa gạo để nâng cao giá trị gia tăng
(ĐCSVN) - Lúa gạo là một trong những ngành hàng có thế mạnh của ngành nông nghiệp nước ta. Để vượt qua những thách thức trước tác động của biến đổi khí hậu, yêu cầu khắt khe của các thị trường,…và góp phần đảm bảo an ninh lương thực, đạt giá trị xuất khẩu cao, ngành hàng này cần được tái cơ cấu lại và bám sát những định hướng cụ thể về thị trường nội địa và thế giới.
Trước những thách thức mới, ngành hàng lúa gạo cần tái cơ cấu lại để nâng cao giá trị gia tăng (Ảnh: BT) |
Hướng đến nâng cao tỷ lệ gạo có giá trị
Ngành lúa gạo có vị trí quan trọng đối với sự phát triển của nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt góp phần cho đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Đây cũng là ngành có lợi thế về điều kiện sinh thái để sản xuất. Tuy nhiên, theo Bộ NN&PTNT, sự phát triển của ngành lúa gạo đang đứng trước nhiều thử thách do hiệu quả thấp và tác động của biến đổi khí hậu, đặc biệt ở những vùng đồng bằng sản xuất lúa trọng điểm.
Để vượt qua thử thách, phát huy lợi thế và giữ vững vị trí quan trọng của lĩnh vực trồng trọt, ngành lúa gạo cần được tiếp tục tái cơ cấu đến năm 2025 và 2030 nhằm đáp ứng những yêu cầu mới cho sự phát triển cao hơn và bền vững hơn.
Trên cơ sở đó, theo Đề án tái cơ cấu ngành lúa gạo Việt Nam đến năm 2025 và 2030, Việt Nam định hướng tái cơ cấu lại ngành hàng này theo hướng nâng cao hiệu quả và phát triển bền vững. Đồng thời hướng tới mục tiêu đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước và nâng cao chất lượng, giá trị dinh dưỡng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Từ đây, hình thành và nâng cao được hiệu quả chuỗi giá trị lúa gạo, thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu và nâng cao thu nhập của nông dân cũng như lợi ích cho người tiêu dùng.
Theo Bộ NN&PTNT, đến năm 2025, Việt Nam phấn đấu giữ diện tích đất lúa từ 3,6-3,7 triệu ha, sản lượng lúa từ 40-41 triệu tấn. Về khối lượng xuất khẩu, khoảng 5 triệu tấn gạo. Trong đó loại gạo thơm, đặc sản và gạo japonica chiếm 40%, gạo nếp 20%, gạo trắng phẩm chất cao 20%, gạo phẩm cấp trung bình và thấp 15%, sản phẩm chế biến từ gạo 5%; tỷ lệ gạo xuất khẩu có thương hiệu trên 20%.
Đồng thời, đến năm 2030, đảm bảo tối thiểu sản lượng đạt 35 triệu tấn lúa/năm và xuất khẩu khoảng 4 triệu tấn gạo. Tuy nhiên, trong đó, loại gạo thơm, đặc sản và gạo japonica chiếm 45%, gạo nếp 20%, gạo trắng phẩm chất cao 15%, gạo phẩm cấp trung bình và thấp 10%, sản phẩm chế biến từ gạo 10%; tỷ lệ gạo xuất khẩu có thương hiệu trên 40%.
Để đạt được mục tiêu này, Bộ NN&PTNT định hướng cần hạn chế việc chuyển đổi ở những nơi đất lúa có độ phì cao và có hệ thống thủy lợi hoàn chỉnh; chấm dứt tình trạng bỏ hoang đất lúa. Đồng thời, diện tích gieo trồng lúa chuyển đổi linh hoạt theo hướng tăng tỷ lệ diện tích lúa luân canh (với rau màu, thủy sản) đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Đặc biệt, với Đồng bằng sông Cửu Long là vùng sản xuất lúa trọng điểm của cả nước, đây là vùng có lợi thế trong sản xuất lúa, đóng góp trên 50% sản lượng lúa cả nước và có khối lượng lúa dư thừa lớn để cung cấp cho thị trường ngoài vùng và 90% lượng gạo xuất khẩu. Tuy nhiên, đây lại là vùng chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu nặng nề nhất, trong đó xâm nhập mặn và hạn gia tăng và sự thiếu hụt nguồn nước ngọt từ sông Cửu Long sẽ là những trở ngại cho sự phát triển bền vững của vùng lúa trọng điểm của cả nước. Do vậy, với vùng này, theo Bộ NN&PTNT, cần sản xuất lúa thích ứng với biến đổi khí hậu; nâng cao giá trị và hiệu quả thông qua nâng cao chất lượng lúa gạo; mở rộng liên kết sản xuất - tiêu thụ.
Với Đồng bằng sông Hồng - vựa lúa của phía Bắc. Đây là vùng sản xuất lúa hướng đến thị trường nội địa, bao gồm thị trường lớn là Hà Nội và các đô thị trong vùng, với xu thế tiêu dùng gạo đặc sản, gạo chất lượng cao gia tăng. Do vậy, vùng cần sản xuất lúa chất lượng cao theo thị hiếu tiêu dùng, trong đó quy hoạch các vùng sản xuất lúa đặc sản địa phương, lúa nếp, lúa japonica, trong sản xuất, cần tăng cường ứng dụng cơ giới hóa và công nghệ cao.
Thị trường là yếu tố quyết định
Để đảm bảo thực hiện được các mục tiêu cho phát triển ngành hàng lúa gạo, không chỉ đơn thuần về công tác sản xuất mà thị trường còn là yếu tố quyết định đến hiệu quả của ngành hàng.
Bộ NN&PTNT xác định sản xuất lúa trong nước (trừ Đồng bằng sông Cửu Long) phục vụ chủ yếu cho tiêu dùng nội địa. Vì vậy, phát triển thị trường gạo trong nước có ý nghĩa quan trọng đối với sự tăng trưởng bền vững của ngành lúa gạo.
Hiện nay và trong tương lai về số lượng nguồn cung gạo cho thị trường nội địa được bảo đảm, tuy nhiên về tính hiệu quả cần tiếp tục nâng cao theo hướng phát triển chuỗi cung ứng gạo đến các trung tâm tiêu thụ lớn và phát triển hệ thống bán lẻ ở khu vực nông thôn, đảm bảo người dân vùng sâu, vùng xa được tiếp cận nguồn cung mọi thời điểm. Đồng thời, mọi loại gạo đều phải đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm.
Bộ NN&PTNT nhận định, xu hướng chung hiện nay trong tiêu thụ gạo nội địa là nhu cầu các loại gạo đặc sản, gạo thơm, chất lượng cao và gạo hữu cơ, đồng thời là nhu cầu gạo cho chế biến gia tăng. Do vậy, các vùng sản xuất cho tiêu thụ nội địa cần có cơ cấu giống phù hợp, trong đó ngoài các giống chủ lực cần khai thác các giống đặc sản địa phương gắn với chỉ dẫn địa lý.
Đặc biệt về xuất khẩu gạo, theo Bộ NN&PTNT, cần tiếp tục thực hiện Chiến lược xuất khẩu gạo Việt Nam giai đoạn 2017- 2020 và tầm nhìn 2030 (theo Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 3/7/2017) và Đề án phát triển thương hiệu gạo Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (Quyết định số 706/QĐ-TTg ngày 21/5/2015).
Bên cạnh đó, tăng cường chọn tạo và phát triển giống lúa đáp ứng cơ cấu chủng loại gạo theo chiến lược xuất khẩu. Trong đó cần ưu tiên cho giống lúa thơm, đặc sản và phát triển các vùng sản xuất tập trung theo giống được xác định có sự liên kết sản xuất - tiêu thụ, xuất khẩu. Kiểm soát chặt chẽ quy trình sản xuất để sản phẩm có chất lượng đồng nhất và đảm bảo các chỉ tiêu vệ sinh an toàn thực phẩm. Về vấn đề này, cần đáp ứng tuyệt đối quy định mức dư lượng tối đa cho phép của thuốc bảo vệ thực vật và truy xuất được nguồn gốc.
Ngoài ra, để đảm bảo xuất khẩu gạo đạt hiệu quả cao, cần cụ thể hóa chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo có thương hiệu và được gắn nhãn chứng nhận quốc gia gạo Việt Nam (Vietnam Rice). Hỗ trợ thiết lập các văn phòng giới thiệu, quảng bá gạo Việt Nam ở các thị trường trọng điểm.
Cũng theo Bộ NN&PTNT, cần thực hiện có hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do (FTA) để phát triển thị trường xuất khẩu gạo, trong đó tận dụng khả năng gạo xuất khẩu của Việt Nam có điều kiện thâm nhập các phân khúc gạo cao cấp; hỗ trợ các hoạt động quốc tế quảng bá gạo Việt Nam, tổ chức Festival lúa gạo Việt Nam ở nước ngoài và tham gia các diễn đàn quốc tế về lúa gạo,… nhằm góp phần đưa giá trị xuất khẩu gạo của Việt Nam tiếp tục đạt giá trị cao./.