Logo báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam

Rượu cần của người S’tiêng được công nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia

Thứ Ba, 23/11/2021 16:43 (GMT+0)
zalo-icon
viber-icon

(ĐCSVN) - Tri thức dân gian, nghề thủ công truyền thống, kỹ thuật chế biến rượu cần của người S’tiêng đã trở thành một trong những giá trị văn hóa độc đáo của vùng đất Bình Phước, được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Rượu cần theo tiếng S’tiêng gọi là Đ’rắp S’lung hay Rơ nơm Đ’rắp, là thức uống độc đáo và cũng là một loại sản vật gắn chặt với đời sống văn hóa, tâm linh, tín ngưỡng của đồng bào dân tộc S’tiêng ở Bình Phước. Rượu cần được chế biến theo một quy trình công phu, nghiêm ngặt, đòi hỏi người chế biến phải có kinh nghiệm, tay nghề cao.

Rượu cần của người S’tiêng Bình Phước đã hình thành từ lâu đời, có vai trò quan trọng trong đời sống của cộng đồng cư dân này. Hiện nay, nhiều gia đình vẫn duy trì việc chế biến rượu cần để sử dụng hằng ngày trong các dịp quan trọng của gia đình. Rượu cần của người S’tiêng Bình Phước có 2 loại: Rượu cần đắng và Rượu cần ngọt, có nồng độ cồn thấp, mùi thơm nồng, dễ uống. Hai yếu tố tạo nên sự khác nhau của rượu là nguyên liệu chế biến và men làm từ các loại lá cây và vỏ cây.

Rượu cần của người S’tiêng. 

Đối với Rượu cần đắng, người S’tiêng dùng vỏ cây Hơ Muôn’L làm men rượu đắng. Vỏ cây Hơ Muôn’L được lấy trên rừng, đem về phơi khô, băm nhỏ, giã thành bột. Có thể sử dụng thêm một số loại vỏ, lá cây khác có tính lành, cho vị đắng, chát vừa phải để phối trộn với vỏ cây Hơ Muôn’L. Gạo tẻ, hoặc gạo lứt đem ngâm nước cho mềm, giã hoặc xay thành bột nhuyễn. Bột gạo và bột vỏ cây được trộn đều với tỷ lệ thích hợp, tùy kinh nghiệm và bí kíp của người làm men, thêm nước vào hỗn hợp bột và nhào cho đều, vo thành viên nắm vừa lòng bàn tay, xếp vào một cái nia, sau đó phủ lá chuối lên mặt và để ủ nơi kín gió khoảng 2 đến 3 ngày. Sau khi ủ, trên bề mặt viên men xuất hiện một lớp phấn, tơ nấm màu trắng, khi dỡ lá phủ ra có mùi thơm nhẹ bốc lên là men đạt yêu cầu. Cuối cùng, dùng lá cỏ tranh khô đốt lớp tơ nấm và phơi thật khô, sau đó treo những viên men đã được hoàn thiện trên giàn bếp, khi nào cần chế biến rượu cần thì lấy ra sử dụng.

Để nấu cơm ruợu người S’tiêng vào rừng hái lá Prareng về thái nhỏ, có thể dùng tươi hoặc phơi khô dự trữ và dùng dần. Dùng lá Prareng trộn với gạo đã được vo sạch theo tỷ lệ 2kg lá với 1kg gạo, cho vào ống nứa và nấu thành cơm tương tự như hình thức nấu cơm lam. Khi hỗn hợp cơm và lá Prareng đã được nấu chín, người S’tiêng dàn mỏng đều cơm ra một cái nia cho nguội, rồi bỏ vào cối giã thành bột nhuyễn. Rải đều bột cơm đã được giã nhuyễn ra nia, lấy men giã thành bột mịn rắc đều lên và trộn đều. Cơm rượu và men được trộn với tỷ lệ 1kg gạo trên 1 viên men. Đây cũng là một khâu quan trọng quyết định chất lượng của bình rượu cần có đạt yêu cầu hay không, nếu nhiều men sẽ làm cho rượu bị chua, và ít men sẽ làm cho cơm rượu bị hỏng, không thành rượu.

Đối với rượu cần ngọt, người S’tiêng vào rừng chặt đẻo vỏ cây K'rai Đăng và lá cây Ler làm men. Cũng như cách chế biến men rượu cần đắng, để chế biến men rượu cần ngọt, hai loại nguyên liệu được phơi khô, băm nhỏ và giã nhỏ thành bột mịn. Sau đó trộn với bột gạo ngâm mềm, xay nhuyễn và nắm thành viên với kích thước nắm vừa lòng bàn tay. Nếu chỉ dùng vỏ cây K'rai Đăng, rượu cần sẽ có mùi hương thơm nhưng không ngọt. Và nếu chỉ dùng bột lá Ler làm men, rượu sẽ rất ngọt nhưng không có hương thơm. Chính vì vậy người S’tiêng đã tìm ra cách phối hợp cả hai loại nguyên liệu này để chế biến thành loại men đặc biệt làm cho rượu cần vừa có vị ngon ngọt, đồng thời lại vừa có mùi hương thơm đặc trưng.

Nấu cơm rượu, người S’tiêng dùng lá cây Mol hoặc lá cây K'rai để trộn với gạo. Các khâu chế biến khác trong chế biến rượu cần ngọt cũng tương tự như chế biến rượu cần đắng. Sau khi đã được trộn đều với men, cơm rượu được cho vào ché, dùng lá chuối khô nén chặt và bịt kín miệng ché, cũng có thể dùng sáp ong hoặc tro bếp hòa nước thành dạng đặc sền sệt để bịt kín miệng ché. Thời gian ủ rượu cần ngọt tối thiểu là 20 ngày, nhưng nếu rượu được ủ lâu ngày hơn sẽ càng làm cho ché rượu cần có hương thơm hơn, vị ngọt ngon hơn.

Công bố Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tri thức dân gian, nghề thủ công truyền thống kỹ thuật chế biến rượu cần của người S’Tiêng Bình Phước. (Ảnh: Báo SGGP) 

Khi buôn làng có lễ hội, hoặc gia đình có đám cưới hỏi, về nhà mới, mừng cơm mới,... rượu cần là một trong những thức uống quan trọng không thể thiếu. Bình rượu cần được đặt ở chỗ trang trọng nhất do gia chủ chọn trước và chôn sẵn một chiếc cọc tre để cột tố, ché rượu vào. Ché rượu cũng được bóc màng bịt, châm nước, cắm cần từ trước sẵn sàng cho buổi lễ quan trọng.

Để uống rượu cần, đồng bào S’tiêng thường dùng 1 đến 2 cần. Thông thường, trong các sự kiện trọng đại như ngày lễ, ngày Tết, rượu cần được mang ra đãi khách, và người S’tiêng chỉ cắm một cần. Chỉ trong các lễ cưới hỏi, lượng khách đông thì người S'tiêng sẽ cắm 2 cần. Trong khi uống rượu, để biết lượng rượu đã được uống hết nhiều hay ít, nhằm đảm bảo công bằng, bình đẳng, người S’tiêng dùng một cành cây có nhánh gác ngang miệng của ché, tố, gọi là Kê Nhệt Pê để đo mực rượu đối với người uống. Người uống phải hết ít nhất một Kê Nhệt Pê mới chứng tỏ là quý nhau.

Rượu cần của người S’tiêng Bình Phước là một sản vật đặc trưng, góp phần làm phong phú, đa dạng của văn hóa ẩm thực Việt Nam nói chung và Bình Phước nói riêng. Theo khảo sát trên địa bàn tỉnh Bình Phước, tuy cách thức chế biến rượu cần của người S’tiêng ở các vùng là tương tự nhau, nhưng nguyên liệu để chế biến lại có sự khác nhau, phản ảnh sự đa dạng về cách thức chế biến cũng như hương vị rượu cần của người S’tiêng Bình Phước. Rượu cần của người S’tiêng cũng thể hiện văn hóa ứng xử của cư dân với cộng đồng, mối quan hệ gắn kết cộng đồng, là thức uống không thể thiếu trong dịp lễ hội, đám cưới, mừng nhà mới, mừng cơm mới… Từ đó, mối liên hệ, đồng cảm, thấu hiểu giữa người với người được nâng lên, ngày càng gắn kết. Kỹ thuật chế biến rượu cần của người S’tiêng Bình Phước còn thể hiện những tri thức dân gian về nhận diện tự nhiên, khai thác tự nhiên để phục vụ các nhu cầu của cuộc sống. Để chế biến từ những loại cây, lá cây mọc trong tự nhiên thành loại rượu cần thơm ngon, đậm đà, riêng có của người S’tiêng Bình Phước, họ đã ghi nhớ, chắt lọc, sáng tạo và tích lũy kinh nghiệm qua hàng trăm năm lịch sử.

Với giá trị tiêu biểu, tri thức dân gian, nghề thủ công truyền thống, kỹ thuật chế biến rượu cần của người S’tiêng đã trở thành một trong những giá trị văn hóa độc đáo của vùng đất Bình Phước. Do đó, ngày 20/12/2019, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã quyết định đưa kỹ thuật chế biến rượu cần của người S’tiêng Bình Phước vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tại Quyết định số 4597/QĐ- BVHTTDL.

Ngày 23/11/2021, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bình Phước đã tổ chức lễ công bố Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tri thức dân gian, nghề thủ công truyền thống kỹ thuật chế biến rượu cần của người S’Tiêng Bình Phước.

Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bình Phước Đỗ Minh Trung nhấn mạnh: Kỹ thuật chế biến rượu cần của người S’Tiêng Bình Phước được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia không chỉ là sự tôn vinh và khẳng định những giá trị lịch sử - văn hóa, khoa học của tri thức dân gian, nghề thủ công truyền thống mà còn là sự ghi nhận những nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các địa phương đang còn duy trì di sản và các cơ quan, đơn vị có liên quan đối với công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản của dân tộc nói chung, di sản của tỉnh Bình Phước nói riêng. Đây cũng là việc làm có ý nghĩa thiết thực đối với một di sản của cộng đồng người S’Tiêng trên địa bàn tỉnh Bình Phước.

Ông Đỗ Minh Trung đề nghị các cấp ủy đảng, chính quyền, các ban ngành, đoàn thể của các địa phương có di sản tiếp tục phối hợp chặt chẽ với ngành văn hóa, thể thao và du lịch thực hiện nghiêm các quy định của Luật Di sản văn hóa, đẩy mạnh công tác truyền dạy các tri thức, kỹ thuật chế biến rượu cần.

Xuân Hiếu (T/H)

có thể bạn quan tâm

Ý KIẾN BÌNH LUẬN