Phát triển nông nghiệp hữu cơ bảo đảm an toàn cho người sử dụng và môi trường
Nông nghiệp hữu cơ với việc hạn chế đến mức thấp nhất sử dụng thuốc trừ sâu, phân bón tổng hợp, chất điều tiết tăng trưởng cây trồng trong quá trình sản xuất đã từng bước đáp ứng nhu cầu sử dụng thực phẩm an toàn của người tiêu dùng. Ðây cũng là phương thức sản xuất giảm tác động đến môi trường và hệ sinh thái tự nhiên.
Việc sử dụng các loại phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật có tác dụng bảo vệ, tăng năng suất cây trồng, nhưng lại gây ra những tác động, ảnh hưởng xấu tới hệ sinh thái, môi trường và sức khỏe con người. Sản xuất Nông nghiệp hữu cơ với mục tiêu bảo đảm hệ sinh thái cây trồng, vật nuôi, tạo ra những sản phẩm có chất lượng an toàn với người sử dụng, mang lại hiệu quả kinh tế, duy trì và nâng cao độ màu mỡ cho đất. Ðặc biệt, an toàn vệ sinh thực phẩm đang là tiêu chí hàng đầu của phần lớn người tiêu dùng trước tình trạng thực phẩm không rõ nguồn gốc, sử dụng các hóa chất độc hại. Vì thế, người tiêu dùng đang dần có xu hướng thay đổi thói quen quan tâm nhiều hơn tới chất lượng sản phẩm và an toàn sức khỏe so với trước đây. Trong khi đó, những tác động của biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng ngày càng rõ rệt đối với ngành nông nghiệp, vì vậy, sản xuất nông nghiệp theo mô hình Nông nghiệp hữu cơ với việc luân canh các loại cây trồng, không sử dụng các hóa chất độc hại, phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, canh tác đúng cách, đúng thời điểm để bảo đảm dinh dưỡng và sự cân bằng của đất làm giảm phát thải khí nhà kính, cải thiện và bảo đảm cân bằng hệ sinh thái nông nghiệp, tránh việc khai thác quá mức tài nguyên là xu thế tất yếu.
Những đồi chè ở xã Bản Liền chỉ bón phân hữu cơ đạt chuẩn và nói không với phân hóa học, thuốc trừ cỏ, trừ sâu độc hại |
Theo các nhà khoa học Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, hiện có 33 tỉnh, thành phố triển khai sản xuất Nông nghiệp hữu cơ với ưu điểm là tránh hoặc loại bỏ phần lớn việc sử dụng phân bón tổng hợp, thuốc trừ sâu, các chất điều tiết sự tăng trưởng của cây trồng và các chất phụ gia trong thức ăn gia súc. Tại huyện Bát Xát (Lào Cai), nơi có nhiều vùng tiểu khí hậu thuận lợi cho việc ứng dụng khoa học - công nghệ đối với các giống cây trồng, từ đó tạo điều kiện nhân rộng mô hình sản xuất thành vùng hàng hóa tập trung, nâng cao giá trị sản xuất và ưu tiên Nông nghiệp hữu cơ. Huyện đã có chính sách phù hợp thu hút doanh nghiệp đầu tư ứng dụng khoa học - công nghệ để liên kết sản xuất với người dân. Cùng với đó, công tác đào tạo nghề, tập huấn được quan tâm triển khai thực hiện cho nên từng bước nâng cao trình độ lao động nông thôn để áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ trong sản xuất.
Lấy mục tiêu phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững, nhằm bảo vệ môi trường và hệ sinh thái, huyện ưu tiên hoàn toàn cho sản xuất Nông nghiệp hữu cơ, áp dụng tiến bộ về công nghệ sinh học vào phục vụ sản xuất với một số giống: nấm hương, chuối cấy mô, lai tạo giống lúa mới để cung ứng phục vụ sản xuất. Hiện nay, toàn huyện có 674 ha diện tích sản xuất có ứng dụng công nghệ cao được bảo đảm tiêu chí của UBND tỉnh Lào Cai. Qua việc áp dụng những mô hình sản xuất mới, chuyển giao công nghệ đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong ngành nông nghiệp, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho người nông dân.
Mô hình trồng dưa lưới trong nhà màng theo tiêu chuẩn hữu cơ |
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học Viện Ðịa lý nhân văn (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam), Nông nghiệp hữu cơ hiện nay vẫn chủ yếu phát triển dưới dạng các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, hoặc hộ gia đình. Ðể phát triển Nông nghiệp hữu cơ mang tính bền vững, đồng thời bảo đảm năng suất và chất lượng sản phẩm cần thực hiện đồng bộ các giải pháp về khoa học công nghệ. Sớm có nghiên cứu, đánh giá lại quy trình sản xuất sản phẩm hữu cơ của các doanh nghiệp hiện nay để tìm ra những khó khăn, đề xuất giải pháp phù hợp cho phát triển Nông nghiệp hữu cơ. Ở đó, việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất Nông nghiệp hữu cơ cần được đẩy mạnh hơn nữa. Như việc sử dụng hệ thống nhà lưới, nhà kính, hệ thống phun nước tự động, cảm biến tự động sẽ giúp giảm một cách đáng kể ảnh hưởng của thời tiết và giảm chi phí nhân công, từ đó bảo đảm hiệu quả kinh tế cũng như năng suất các sản phẩm Nông nghiệp hữu cơ. Mặt khác, tăng cường trao đổi kinh nghiệm, học tập, đào tạo nguồn nhân lực với các tổ chức quốc tế, các quốc gia có nền nông nghiệp phát triển để tìm ra giải pháp phù hợp cho nền nông nghiệp Việt Nam nói chung và nền Nông nghiệp hữu cơ nói riêng. Có cơ chế, chính sách khuyến khích, thu hút các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư sản xuất và kinh doanh các sản phẩm Nông nghiệp hữu cơ; các mặt hàng thuốc bảo vệ thực vật và phân bón, thức ăn chăn nuôi có nguồn gốc hữu cơ. Ði liền với đó là tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vai trò của sản phẩm hữu cơ tới người quản lý, người sản xuất, các doanh nghiệp và người tiêu dùng.