Logo báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam

Bài 1: Nhận diện những bất cập trong đào tạo nguồn nhân lực 

(ĐCSVN) - Nguồn nhân lực được đảm bảo về số lượng và có chất lượng cao đóng vai trò rất quan trọng trong công cuộc tái cơ cấu ngành Nông nghiệp và xây dựng, phát triển nông thôn. Thực tế hiện nay, vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập trong công tác này, dẫn đến số học viên đăng ký theo học các ngành Nông nghiệp ở một số hệ đào tạo bị giảm sút, nhất là đối với các ngành nghề nông nghiệp truyền thống.

 Nguồn nhân lực cần được đảm bảo về số lượng và yêu cầu về chất lượng để phục vụ cho công cuộc tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững

Sau hơn 30 năm đổi mới, Nông nghiệp Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, được Đảng, Nhà nước, Nhân dân ghi nhận và đánh giá cao. Trong điều kiện kinh tế thế giới và trong nước gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng bởi dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khí hậu, suy thoái kinh tế, chiến tranh thương mại và xung đột giữa các nước... ngành Nông nghiệp Việt Nam vẫn đạt được những thành tựu to lớn, tiếp tục khẳng định được vị thế quan trọng trong nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, giải quyết việc làm. Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu nông sản đứng thứ 2 Đông Nam Á và thứ 15 trên thế giới, đưa nông sản tới hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Nghị quyết 19-NQ/TW của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã xác định mục tiêu đến năm 2030: Nông dân và cư dân nông thôn có trình độ, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng cao, làm chủ quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nông nghiệp phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia, quy mô sản xuất hàng hoá nông sản ngày càng lớn, bảo đảm môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu,…

Để thực hiện mục tiêu trên, Nghị quyết đã xác định nhiệm vụ, giải pháp: Tạo đột phá trong phát triển nhân lực, đào tạo, nâng cao kỹ năng nghề đáp ứng yêu cầu cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, tận dụng hiệu quả cơ hội Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế. Đổi mới toàn diện hình thức tổ chức và nội dung đào tạo nghề cho lao động nông thôn, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề, nhất là lao động trẻ, đáp ứng nhu cầu thị trường. Mở rộng quy mô, ngành nghề đào tạo phục vụ sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, khoa học - công nghệ, quản trị kinh doanh đáp ứng nhu cầu lao động ở nông thôn, chuyển đổi nghề nghiệp và xuất khẩu lao động. Có chiến lược nâng cao năng suất lao động, khuyến khích các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức tư nhân tham gia đào tạo nghề, phát triển thị trường lao động ở nông thôn.

 Đào tạo nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng nên đội ngũ làm công tác nông nghiệp có trình độ chuyên môn cao 

Một số kết quả nổi bật

 

Thời gian qua, công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực của Bộ Nông nghiêp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) và của ngành Nông nghiệp đã đạt được những thành tựu nhất định, góp phần tích cực vào chuyển đổi cơ cấu kinh tế của ngành.

Tính đến nay, Bộ NN&PTNT có 12 cơ sở đào tạo đại học và sau đại học (gồm 4 đại học, học viện và 8 Viện nghiên cứu), 28 trường Cao đẳng và 2 trường Cán bộ quản lý. Tổng số có 40 cơ sở đào tạo cấp bằng từ bậc tiến sĩ đến đến bậc sơ cấp. Đến năm 2022, các cơ sở đào tạo đại học của Bộ NN&PTNT có 38 ngành đào tạo trình độ tiến sĩ; 39 ngành đào tạo thạc sĩ và 97 ngành đào tạo trình độ đại học, 112 ngành đào tạo cao đẳng; 122 ngành trung cấp.

Thời gian qua, các trường đại học đã chú trọng công tác quảng bá tuyển sinh, mở rộng nhiều ngành đào tạo mới, đáp ứng nhu cầu của xã hội và người học. Trong đó, Đại học Thủy lợi mở các ngành mới như: An ninh mạng, kỹ thuật Robot và điều khiển thông minh, kinh tế số, tài chính - ngân hàng, kiểm toán, luật… Học viện Nông nghiệp Việt Nam mở mới các ngành gồm: Kỹ thuật điều khiển và tự động hóa, mạng máy tính và truyền thông dữ liệu, tài chính ngân hàng, thương mại điện tử, logistic và quản lý chuỗi cung ứng, luật, công nghệ kỹ thuật hóa học, quản lý bất động sản, sư phạm công nghệ… Trường Đại học Nông Lâm Bắc Giang mở thêm ngành ngôn ngữ Trung Quốc.

Trước sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt trong giáo dục nghề nghiệp, các trường đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Nông nghiệp đã có nhiều nỗ lực và áp dụng nhiều giải pháp sáng tạo linh hoạt để thu hút học sinh, sinh viên. Bên cạnh việc thiết kế, in ấn và phát các tài liệu đến học sinh ở các trường phổ thông, xây dựng các trang thông tin điện tử cho phép học sinh, sinh viên tìm hiểu về các ngành nghề, cơ hội học tập làm việc, nhiều trường đã chủ động thành lập các đoàn tuyển sinh để làm công tác truyền thông đến các địa phương, các trường phổ thông. Thiết lập mối quan hệ khăng khít với các đơn vị giáo dục tại các địa phương để làm công tác định hướng nghề nghiệp và thu hút tuyển sinh.

Bên cạnh đó, một số trường như: Cao đẳng cơ điện Hà Nội, Cao đẳng Cơ điện và Xây dựng Bắc Ninh, Cao đẳng Cơ điện - Xây dựng và Nông lâm Trung Bộ đã chủ động ký kết hợp tác với doanh nghiệp lớn của nước ngoài như: Samsung, Canon, Toyota, Công ty Cổ phần nông nghiệp Trường Hải (THAGRICO)… để đưa sinh viên đến thực tập, cam kết việc làm và cung cấp học bổng, trả lương cho học sinh, sinh viên trong quá trình học và thực tập tại doanh nghiệp.

Những kết quả trên đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn. Từ đây, đóng góp cho việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, xây dựng nền móng để đưa Việt Nam có vị trí trong số những nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới.

Suy giảm ở các ngành nông nghiệp truyền thống

Bên cạnh những kết quả đạt được, thực tế cũng cho thấy, công tác đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho ngành nông nghiệp, nông thôn vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế và bất cập.

Điều này có thể thấy rõ qua việc mặc dù tuyển sinh đại học có xu hướng tăng lên, tuy nhiên các hệ đào tạo khác (gồm tiến sĩ, thạc sĩ, cao đẳng, trung cấp và sơ cấp) đặc biệt là các ngành nông nghiệp có xu hướng giảm qua các năm.

Theo Bộ NN&PTNT, trong đào tạo sau đại học, so với đào tạo tiến sĩ, công tác tuyển sinh đối với học viên cao học mặc dù có sự ổn định hơn nhưng đã có sự suy giảm, đặc biệt ở các ngành nông nghiệp truyền thống. Cụ thể, trong nhóm ngành nông nghiệp có sự suy giảm ở ngành khoa học đất, khuyến nông, chăn nuôi, nông học, khoa học cây trồng, phát triển nông thôn, kinh tế nông nghiệp, bảo vệ thực vật. Đối với nhóm ngành thủy sản, giảm mạnh ở chuyên ngành khai thác thủy sản, quản lý và khai thác nguồn lợi biển đảo, khoa học thủy sản. Nhóm ngành lâm nghiệp giảm mạnh ở ngành lâm sinh, lâm học, quản lý tài nguyên rừng, lâm nghiệp đô thị. Nhóm ngành thủy lợi giảm mạnh ở ngành kỹ thuật tài nguyên nước, thủy văn, kỹ thuật xây dựng công trình thủy và kỹ thuật cấp thoát nước.

Ngoài ra, có sự mất cân đối giữa các lĩnh vực quan trọng của ngành, đặc biệt khối thủy sản mới có 1 chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ và 2 chương trình đào tạo trình độ tiến sĩ.

Trong tuyển sinh đại học, mặc dù có xu hướng tăng, nhưng có sự suy giảm ở các ngành truyền thống như: Khoa học đất, Khoa học cây trồng, phát triển nông thôn, nuôi trồng thủy sản, lâm sinh, quản lý tài nguyên rừng, công nghệ thực phẩm, công nghệ sau thu hoạch, thủy văn học, kỹ thuật xây dựng công trình thủy…

Chính việc thay đổi trong xu hướng lựa chọn ngành nghề của học sinh, sinh viên cũng dẫn đến mất cân đối trong cơ cấu giáo viên. Trong khi một số ngành nghề mới mở, có sự thiếu hụt giảng viên cơ hữu, phải mời thêm giảng viên bên ngoài thì các ngành truyền thống lại có sự dư thừa, mặc dù nhiều giảng viên có trình độ cao được đào tạo bài bản và có kinh nghiệm lâu năm nhưng không có đủ giờ dạy. Nguyên nhân do học sinh, sinh viên đăng ký các ngành truyền thống với số lượng thấp, thậm chí có ngành có năm không có sinh viên đăng ký theo học.

Đối với giáo dục nghề nghiệp cũng chứng kiến sự suy giảm của các ngành nông nghiệp truyền thống, đặc biệt là sự sụt giảm nhanh của hệ đào tạo cao đẳng, sơ cấp và dạy nghề ngắn hạn. Cụ thể, trình độ cao đẳng có xu hướng suy giảm từ 6.042 sinh viên năm 2016 xuống còn 4.305 sinh viên vào năm 2021 (mặc dù có xu hướng tăng so với 2020). Một số trường đạt dưới 50% chỉ tiêu tuyển sinh đào tạo cao đẳng so với số lượng chỉ tiêu đăng ký. Học sinh hệ trung cấp và sơ cấp duy trì ở mức ổn định hơn.

Tuy nhiên cả ba hệ đào tạo cao đẳng, trung cấp và sơ cấp đều chứng kiến sự suy giảm của các nghề nông nghiệp trong giai đoạn 2016 đến năm 2021. Cụ thể, hệ cao đẳng giảm từ 4.466 sinh viên xuống còn 3.471 sinh viên (giảm 28,6%), hệ trung cấp giảm từ 2.947 sinh viên năm 2017 xuống còn 2.119 sinh viên năm 2021 (giảm 39%), hệ sơ cấp và dạy nghề dưới ba tháng giảm từ 2.481 học viên năm 2016 xuống còn 532 học viên năm 2021.

Cùng với những khó khăn trong công tác tuyển sinh, theo Bộ NN&PTNT, việc học sinh, sinh viên bỏ học giữa chừng cũng đang trở thành vấn đề quan tâm của nhiều trường, đặc biệt đối với học sinh, sinh viên học trung cấp, cao đẳng.

Hiện nay, chưa có tổng kết đánh giá và dự báo cụ thể về công tác phát triển nguồn nhân lực của ngành Nông nghiệp để có các giải pháp tổ chức đào tạo gắn với thị trường lao động. 

Nguyên nhân từ đâu?

Theo đánh giá của GS.TS Nguyễn Thị Lan, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam, mặc dù phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ nhưng nhìn chung nguồn nhân lực hiện nay của Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế, chưa có những đóng góp lớn để nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm. Chất lượng lao động còn rất thấp, yếu kém, bất hợp lý về cơ cấu ngành, nghề. Biểu hiện của tình trạng đó chính là một bộ phận không nhỏ sinh viên ra trường không tìm được việc làm trong khi các doanh nghiệp, các khu công nghiệp lại thiếu trầm trọng lao động đã qua đào tạo theo đúng nhu cầu của họ, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghệ cao…

Thực tế đối với đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn, chúng ta cần nhìn nhận rõ, có rất nhiều nguyên nhân dẫn thực trạng suy giảm số lượng tuyển sinh ở các ngành nghề. Về khách quan, có thể thấy, đó là quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cùng với quá trình đô thị hóa dẫn đến sự chuyển dịch lao động từ khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản sang khu vực công nghiệp – xây dựng, dịch vụ và du lịch. Tỷ trọng lao động trong nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 73% năm 1986 xuống còn 50% vào năm 2010 và khoảng 33% vào năm 2020. Bên cạnh đó, thu nhập và điều kiện làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp kém hấp dẫn hơn so với các ngành khác nên khiến cho số học viên đăng ký theo học các ngành Nông nghiệp bị giảm sút.

Thứ nữa, đó là nguồn lực đầu tư của Nhà nước cho giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp còn hạn hẹp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển và rất thấp so với mức trung bình chung của khu vực và thế giới. Trong khi đó, việc thực hiện cơ chế tự chủ đối với các viện, các trường cũng dẫn đến khó khăn về tài chính trong thực hiện nhiệm vụ.

Công tác tham mưu, thể chế hóa để thực hiện cơ chế giao nhiệm vụ, đặt hàng đào tạo và xây dựng cơ chế chính sách đặc thù về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực còn chậm, lúng túng, nhất là đào tạo nhân lực trình độ cao của ngành; chưa có tổng kết đánh giá và dự báo cụ thể về công tác phát triển nguồn nhân lực của ngành để có các giải pháp tổ chức đào tạo gắn với thị trường lao động. Việc lồng ghép công tác đào tạo với các chương trình, dự án lớn của Bộ, ngành chưa được chú trọng; công tác đầu tư cho nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực còn ít và dàn trải,…

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc học sinh, sinh viên không mấy "mặn mà" đăng ký theo học các ngành nông nghiệp. 

Nhìn nhận về công tác đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn hiện nay, bà Nguyễn Thị Trà My - Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Tập đoàn PAN cho rằng, mặc dù Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc phát triển hệ thống giáo dục nông nghiệp, nhưng vẫn còn những thách thức cản trở chất lượng và sự phù hợp của đào tạo đại học. Nguyên nhân do nhiều chương trình nông nghiệp tập trung nhiều vào kiến thức lý thuyết, thiếu kỹ năng thực hành và kinh nghiệm thực hành. Kết quả là, sinh viên tốt nghiệp thường gặp khó khăn trong việc áp dụng kiến thức của họ một cách hiệu quả trong các tình huống thực tế.

Hơn nữa, bà Nguyễn Thị Trà My cũng cho rằng, một số chương trình giảng dạy và phương pháp giảng dạy còn chưa phù hợp với nhu cầu phát triển của ngành nông nghiệp và thủy sản.

“Ngoài ra, sự hợp tác hạn chế giữa các trường đại học và doanh nghiệp cản trở tính thực tiễn và định hướng ngành của giáo dục nông nghiệp. Có một khoảng cách giữa học thuật và thực tế của thị trường việc làm, dẫn đến sự không phù hợp về kỹ năng và kiến thức. Sinh viên tốt nghiệp có thể gặp khó khăn trong việc đảm bảo việc làm hoặc có thể yêu cầu đào tạo thêm khi gia nhập lực lượng lao động. Trong khi nhu cầu tuyển dụng nguồn nhân lực chất lượng cao của các doanh nghiệp nông nghiệp rất lớn” - bà Nguyễn Thị Trà My nhấn mạnh./.

(còn nữa)

Nội dung: B.T Ảnh: Tác giả và tư liệu của đồng nghiệp
02/09/2023 20:38
zalo-icon
viber-icon

Ý KIẾN BÌNH LUẬN