Những điểm mới trong Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể
(ĐCSVN)- Bộ Giáo dục & Đào tạo (GD&ĐT) vừa công bố Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể (Chương trình tổng thể) để xin ý kiến các tầng lớp nhân dân trước khi ban hành chính thức. Theo GS. Nguyễn Minh Thuyết - Tổng chủ biên Chương trình giáo dục phổ thông (CTGDPT) có 3 điểm mới so với chương trình hiện hành.
Theo GS. Nguyễn Minh Thuyết, tháng 8/2015, Bộ GD&ĐT đã công bố dự thảo Chương trình tổng thể để lấy ý kiến nhân dân. Bản dự thảo đã được các tầng lớp nhân dân, trong đó có các chuyên gia giáo dục, đóng góp nhiều ý kiến.
Dự thảo lần này là sự kế thừa dự thảo trước, đồng thời được hoàn thiện trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các tầng lớp nhân dân, các chuyên gia. Những điểm mới cơ bản so với chương trình hiện hành là: Thứ nhất, về phương pháp xây dựng chương trình, chúng tôi áp dụng các phương pháp “Sơ đồ ngược” (Back – Mapping) và Đánh giá tác động của chính sách (Regulatory Impact Assessment, viết tắt là RIA).
Trước hết, nói về phương pháp Sơ đồ ngược. Thông thường, khi xây dựng chương trình GDPT theo định hướng tiếp cận nội dung, người ta xuất phát từ hệ thống kiến thức của môn học, chọn ra từ đó những kiến thức được cho là cần thiết đối với học sinh phổ thông để đưa vào chương trình.
Nhưng với định hướng tiếp cận năng lực thì việc xây dựng chương trình phải xuất phát từ phân tích bối cảnh trong nước và quốc tế, trên cơ sở đó xác định nhu cầu phát triển đất nước, nhu cầu phát triển nhân lực, mục tiêu GDPT, rồi từ mục tiêu đó xác định những phẩm chất và năng lực cần hình thành, phát triển ở học sinh, tức là chuẩn đầu ra của chương trình. Từ chuẩn đầu ra mới xác định được những nội dung cần dạy, từ đó phân bổ thời lượng dạy học, xác định phương pháp giáo dục và phương pháp đánh giá kết quả giáo dục.
Tiếp theo, nói về phương pháp Đánh giá tác động của chính sách (RIA). Ban Phát triển Chương trình GDPT nhận thức: Chương trình GDPT là một văn bản có giá trị pháp lý, điều chỉnh hành vi xã hội để giải quyết một vấn đề rộng lớn liên quan đến số đông người dân trong một khoảng thời gian dài, cho nên nó là một chính sách. Vì vậy, chương trình GDPT mới phải được xây dựng theo đúng quy trình ban hành chính sách. Quy trình này có 5 bước: đánh giá việc thực thi chính sách hiện hành; đề xuất chính sách mới; đánh giá tác động của chính sách mới; điều chỉnh và ban hành chính sách mới; chỉ đạo thực thi chính sách.
Việc đánh giá tác động diễn ra suốt trong quá trình xây dựng chương trình, như vậy sẽ bảo đảm tính khả thi của chương trình và rút ngắn được thời gian dạy thực nghiệm.
Điểm mới thứ hai của dự thảo chương trình lần này so với chương trình hiện hành là “chân dung” của người học sinh mới. Theo Nghị quyết 88 của Quốc hội về đổi mới chương trình, SGK GDPT xác định mục tiêu đổi mới là: “Đổi mới toàn diện mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chứcgiáo dục, thi, kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục theo yêu cầu phát triển phẩm chất và năng lực học sinh”.
Để xác định các phẩm chất cần hình thành, phát triển ở học sinh, Ban Phát triển Chương trình GDPT đã nghiên cứu các văn kiện của Đảng và chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa, con người Việt Nam (Nghị quyết 5 của BCH Trung ương khóa VIII, Nghị quyết 33 của BCH Trung ương khóa XI, Năm điều Bác Hồ dạy học sinh). Dựa trên các tài liệu này, đồng thời cân nhắc để phản ánh được các giá trị phổ quát của thời đại và phù hợp với hệ thống phẩm chất, năng lực nói chung trong Chương trình GDPT mới, dự thảo chương trình nêu lên 6 phẩm chất chủ yếu cần hình thành, phát triển ở học sinh là: yêu đất nước, yêu con người, chăm học, chăm làm, trung thực, trách nhiệm.
Về năng lực, các tài liệu chính mà chúng tôi dựa vào là tài liệu của OECD (năm 2005), EU (năm 2006) và WEF (2015). Hệ thống hóa nội dung các tài liệu này, đồng thời chắt lọc cho phù hợp với điều kiện nước ta, dự thảo chương trình nêu lên 10 năng lực cốt lõi (những năng lực mà ai cũng cần có để sống và làm việc trong xã hội hiện đại), bao gồm: a) Những năng lực chung được tất cả các môn học và hoạt động giáo dục góp phần hình thành, phát triển: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; b) Những năng lực chuyên môn được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học nhất định: năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực tìm hiểu tự nhiên và xã hội, năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mỹ, năng lực thể chất.
Điểm mới thứ ba ở dự thảo lần này là sự phân biệt rõ giữa giai đoạn giáo dục cơ bản và giáo dục định hướng nghề nghiệp. Nghị quyết 88 của Quốc hội đã quy định: “Giáo dục phổ thông 12 năm, gồm hai giai đoạn giáo dục: giai đoạn giáo dục cơ bản (gồm cấp tiểu học 5 năm và cấp trung học cơ sở 4 năm) và giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp (cấp trung học phổ thông 3 năm). Giáo dục cơ bản bảo đảm trang bị cho học sinh trí thức phổ thông nền tảng, đáp ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau trung học cơ sở. Giáo dục định hướng nghề nghiệp bảo đảm học sinh tiếp cận nghề nghiệp, chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng [...] Ở cấp tiểu học và cấp trung học cơ sở, thực hiện lồng ghép những nội dung liên quan với nhau của một số lĩnh vực giáo dục, một số môn học trong chương trình hiện hành để tạo thành môn học tích hợp; thực hiện tinh giản, tránh chồng chéo nội dung giáo dục, giảm hợp lý số môn học. Ở cấp trung học phổ thông, yêu cầu học sinh học một số môn học bắt buộc, đồng thời được tự chọn các môn học và chuyên đề học tập theo hình thức tích lũy tín chỉ.”
Theo quy định này, dự thảo chương trình mới chủ trương thực hiện giáo dục toàn diện, tích hợp ở các cấp tiểu học và THCS, thực hiện giáo dục phân hóa và tự chọn ở cấp THPT.
Ở cấp THPT, dự thảo chương trình mới xác định lớp 10 là lớp dự hướng nghề nghiệp với các môn học phân hóa (môn Khoa học tự nhiên ở THCS tách thành các môn Vật lý, Hóa học, Sinh học; môn Lịch sử và Địa lý ở THCS tách thành các môn Lịch sử, Địa lý,…). Nội dung các môn học này giúp học sinh có cái nhìn tổng quát về lĩnh vực khoa học tương ứng với mỗi môn học, vai trò và ứng dụng của mỗi ngành khoa học trong đời sống thực tế, những ngành nghề có liên quan, nhằm củng cố vững chắc học vấn phổ thông cốt lõi, hoàn thiện thêm một bước các phẩm chất, năng lực đã được định hình trong giai đoạn giáo dục cơ bản, tạo điều kiện để học sinh nhận thức rõ hơn năng lực, sở trường của bản thân, từ đó giúp học sinh lựa chọn các môn học ở lớp 11 và lớp 12 một cách phù hợp.
Ở các lớp 11, 12, ngoài một số môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc (Ngữ văn, Toán, Ngoại ngữ 1, Giáo dục thể chất, Giáo dục quốc phòng và an ninh, Hoạt động trải nghiệm sáng tạo), học sinh chỉ cần chọn 3/12 môn còn lại phù hợp với định hướng nghề nghiệp./.1