Náo nức nhịp trống đôi của người Chăm H’roi
(ĐCSVN) – Trống đôi (Chigưl) - loại nhạc cụ dân gian lâu đời của người Chăm H’roi ở huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định được diễn tấu theo cặp nam nữ. Thông qua múa trống đôi, người Chăm H’roi có thể chuyện trò, trao gửi tâm tư, tình cảm, khát vọng và kết nối cộng đồng người Chăm H’roi.
Hình thức song tấu trống bằng tay của người Chăm H’roi, kết hợp tài tình giữa âm nhạc và hình thể, tạo không khí hứng khởi, cả nhạc cụ và người chơi cùng toát lên sự phóng khoáng, ngẫu hứng rất độc đáo. Trống Chigưl làm bằng thân cây khoét rỗng, bịt da bò, hoặc da ngựa. Khi diễn tấu người chơi theo cặp nam và nữ, nam chơi trống đực, nữ chơi trống cái. Động tác múa trống mô phỏng theo dáng đi, kiểu chạy nhảy của muông thú, hòa quyện với tiếng chiêng, tiếng cồng, tiếng trống náo nức, lúc trầm, lúc bổng, khi nhịp nhàng, lúc lại dồn dập, sôi nổi, gửi tới các vị thần linh lời cầu an, cầu phúc, cầu sức khỏe cho người dân buôn làng.
Trống Chigưl, xuất hiện lâu đời, được sử dụng rộng rãi trong đời sống người Chăm H’roi, huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định và ở một số địa phương thuộc tỉnh Phú Yên. Nghệ thuật dân gian này được sử dụng phổ biến trong các lễ hội quan trọng của người Chăm H’roi. Trải qua nhiều thế hệ người Chăm H’roi bảo tồn và hoàn thiện nâng lên tầm nghệ thuật trình diễn.
Nghệ thuật trống đôi độc đáo ở chỗ, người chơi diễn tấu trống bằng cách dùng bốn đầu ngón tay, bàn tay vê, vuốt, vỗ trên mặt trống, tạo ra các âm sắc và tiết tấu, mà không dùng dùi trống. Người chơi không chỉ đánh trống, chơi trống mà còn múa trống, đấu trống.
Múa trống đôi là nghệ thuật nói chuyện đối đáp hai người chơi, thông qua âm thanh, nhịp điệu, tiết tấu những điệu trống, họ có thể trao gửi tâm tư, tình cảm, trò chuyện với nhau. |
Khi trình diễn hai người diễn tấu đứng đối diện nhau, trống nặng khoảng 4 kg đeo trước bụng. Trong khi chân nhún nhảy theo nhịp, hai tay người chơi trống vỗ vào mặt trống liên hồi, hai người múa trống đôi cùng nhau phải tạo sự ăn ý, nhịp nhàng, người diễn tấu phải múa liên tục, thân mình luôn di chuyển, nhún nhảy. Đòi hỏi người diễn tấu phải có khả năng thẩm âm tốt, sự khéo léo và sức khoẻ dẻo dai, để tạo nên những âm thanh mạnh mẽ, tiết tấu linh hoạt.
Để múa hay, hai nghệ nhân múa trống đôi phải là một cặp “ngang sức ngang tài” người tung, kẻ hứng, hiểu ý nhau mới giữ cho cuộc chơi trọn vẹn. Khi múa trống đôi người diễn phải ăn ý, hiểu ý nhau và giữ được sự nhịp nhàng, uyển chuyển và tung hứng cho nhau. Thông qua âm thanh, nhịp điệu, tiết tấu của loại nhạc cụ này, người biểu diễn múa trống có thể diễn đạt tình cảm, trao đổi tâm tình, cảm nhận được nhớ nhung vui buồn hay trách móc. Nét độc đáo là tính kết nối cộng đồng cao của nghệ thuật trình diễn này.
Các động tác múa trống đôi mô phỏng theo dáng đi, kiểu chạy nhảy của muông thú, hòa quyện với tiếng chiêng, tiếng cồng, tiếng trống lúc trầm, lúc bổng, khi nhịp nhàng, lúc lại dồn dập, sôi nổi, gửi tới các vị thần linh lời cầu an, cầu phúc, cầu sức khỏe cho cả buôn làng. Tiếng trống cất lên báo hiệu một mùa lễ hội, báo hiệu những cuộc vui của cả cộng đồng. Những tâm tình, những buồn vui và những mâu thuẫn, bất hòa đều được giải tỏa qua âm thanh của trống đôi.
Trong những lễ hội lớn của cộng đồng người Chăm có thời gian tổ chức dài, trống đôi có thể được biểu diễn suốt ngày đêm, từng cặp thay phiên nhau diễn tấu, cặp này mệt cặp khác thay.
Với những giá trị nghệ thuật dân gian độc đáo, cùng với nghệ thuật trình diễn cồng ba, chiêng năm, nghệ thuật trình diễn trống đôi đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2016.