Kịch bản cấp điện năm 2025
(ĐCSVN) - Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) vừa báo cáo Chính phủ kịch bản cấp điện năm 2025. Hai kịch bản tăng trưởng lần lượt là 9,4% và 13,2% so với năm 2024.
Đường dây 500 KV mạch 3 đã hoàn thành với mục tiêu đưa điện ra Bắc, song sẽ không có nhiều ý nghĩa nếu không có nguồn điện mới vào vận hành giai đoạn tới. |
Theo EVN, trong 9 tháng năm 2024, EVN đã bảo đảm cung cấp đủ điện phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu sinh hoạt nhân dân trong bối cảnh nhu cầu điện tăng trưởng rất cao do kinh tế tiếp tục hồi phục.
Trong đó, điện sản xuất và nhập khẩu 9 tháng đạt 232,8 tỷ kWh, tăng 10,97% so cùng kỳ 2023; điện thương phẩm đạt 208,3 tỷ kWh, tăng 11,32% so cùng kỳ năm 2023.
Dự kiến 3 tháng cuối năm, điện sản xuất và nhập khẩu ước đạt 77,06 tỷ kWh, tăng 8,5% so với cùng kỳ; lũy kế cả năm 2024 ước đạt 309,91 tỷ kWh, tăng 10,36% so với năm 2023 và đạt 99,8% kế hoạch năm.
Điện thương phẩm 3 tháng ước đạt 67,74 tỷ kWh tăng 6,02% và lũy kế cả năm 2024 ước đạt 276,04 tỷ kWh, tăng trưởng 9,1% so với năm 2023.
Trên số liệu năm nay, EVN cũng đưa ra 2 kịch bản cấp điện cho năm 2025.
Với kịch bản cơ sở, nhu cầu phụ tải khoảng 339,17 tỷ kWh, tăng trưởng 9,4% so với năm 2024.
Kịch bản kiểm tra (để chuẩn bị các giải pháp đảm bảo điện trong trường hợp nền kinh tế tiếp tục hồi phục mạnh mẽ): nhu cầu phụ tải khoảng 350,97 tỷ kWh, tăng trưởng 13,2% so với năm 2024.
EVN đánh giá, cung ứng điện năm 2025 vẫn được đáp ứng trong đa số các tháng trong năm, nhưng còn tiềm ẩn một số rủi ro cho khu vực miền Bắc trong các thời điểm cao điểm cuối mùa khô (giai đoạn từ tháng 5-7, nếu nhu cầu tăng đột biến).
EVN cho hay, những khó khăn có thể ảnh hưởng đến cung ứng điện là khả năng cấp khí thiên nhiên trong năm 2025 sẽ bị suy giảm mạnh so với các năm trước đây.
Tiến độ của nhiều dự án nguồn điện mới chậm tiến độ. Theo đó, các nguồn thủy điện lớn cơ bản đã được xây dựng và đưa vào vận hành, chỉ còn một số dự án thủy điện với quy mô công suất nhỏ.
Trong khi nhiệt điện than sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc thu xếp nguồn vốn tín dụng và việc triển khai các dự án cũng sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro sau khi Việt Nam đã đưa ra cam kết mạnh mẽ cùng cộng đồng quốc tế về mục tiêu giảm lượng phát thải khí nhà kính về 0 (Net Zero) vào năm 2050 tại Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc năm 2021 (COP 26).
Nhiệt điện khí, ngoại trừ dự án Nhà máy điện (NMĐ) Nhơn Trạch 3&4 và Hiệp Phước 1 với tổng công suất khoảng 2.824 MW có thể hoàn thành trước năm 2030, các dự án LNG còn lại khó đáp ứng tiến độ hoàn thành trước năm 2030.
Còn các nguồn điện gió ngoài khơi (ĐGNK), mục tiêu đặt ra 6.000 MW vào năm 2030, thời gian thực hiện một dự án cần tới 6-8 năm, song hiện cơ chế phát triển ĐGNK đang được Bộ Công thương xây dựng Đề án thí điểm phát triển kèm theo các cơ chế, chính sách đồng bộ để trình Chính phủ.
Các nguồn NLTT mới được bổ sung trong Quy hoạch điện VIII hiện nay vẫn đang cần các cơ chế chính sách từ các cấp có thẩm quyền để triển khai theo quy hoạch./.