Đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển
(ĐCSVN) – “Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển; phát triển bền vững, thịnh vượng” – đó là quan điểm xuyên suốt được khẳng định tại Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Ngày 26/6, tại Hà Nội, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam (Bộ Tài nguyên và Môi trường) đã phối hợp với Học viện Ngoại giao tổ chức buổi trao đổi, thảo luận Nghị quyết số 36-NQ/TW (NQ36) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển
Phát biểu tại buổi làm việc TS. Tạ Đình Thi, Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam cho biết: Biển và đại dương có vị trí, vai trò và tầm quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng, là không gian sinh tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Các quốc gia ven biển, các quốc đảo đều coi biển là nhân tố quan trọng gắn với chủ quyền, an ninh quốc gia và trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
TS. Tạ Đình Thi, Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam phát biểu tại buổi thảo luận. (Ảnh: Bích Liên) |
Tính chất mở, xuyên biên giới của biển và đại dương đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ, toàn diện của các quốc gia trên thế giới để giải quyết các vấn đề về phát triển kinh tế đại dương bền vững, đặc biệt là thích ứng với biến đổi khí hậu nhằm thực hiện thành công Chủ đề của năm ASEAN 2020: “Gắn kết và Chủ động thích ứng”.
Cùng với xu hướng đó, kinh tế thế giới đang dịch chuyển theo hướng phát triển kinh tế biển, chuyển từ tư duy khai thác sang tư duy phát triển hiệu quả và bền vững, hướng tới kinh tế xanh “Blue economy”; chuyển hướng từ khai thác tài nguyên thô sang ưu tiên chế biến sâu để tăng “giá trị gia tăng” và tiết kiệm tài nguyên biển; chuyển từ chú trọng khai thác tài nguyên vật chất sang khai thác các giá trị chức năng, giá trị dịch vụ và giá trị không gian của các hệ thống tài nguyên vùng bờ, biển và đại dương, bao gồm các hệ sinh thái biển - ven biển. Đây là xu thế tất yếu của thời đại về đại dương.
Bắt kịp xu thế này, với tư duy hướng ra biển, dựa vào biển và tầm nhìn chiến lược, ngày 22 tháng 10 năm 2018, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã thông qua Nghị quyết 36 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 với quan điểm “Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tăng cường đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển, góp phần duy trì môi trường hoà bình, ổn định cho phát triển”.
Theo TS. Tạ Đình Thi, Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam thể hiện một bước tiến mới về nhận thức và tầm nhìn của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp phát triển đất nước; là một chiến lược tổng thể, toàn diện, là nền tảng cho việc phát triển kinh tế biển bền vững, quản lý biển, hải đảo của nước ta trong giai đoạn tới với những khâu đột phá hết sức quan trọng và các nhiệm vụ, giải pháp vừa mang tính chiến lược, vừa mang tính cụ thể để đạt được các mục tiêu đề ra.
Việc phát triển kinh tế biển được thực hiện trên cơ sở giải quyết đồng bộ các mối quan hệ giữa phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh trên biển; giữa phát triển kinh tế với bảo đảm an sinh xã hội biển, đảo; giữa phát triển kinh tế với sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo; giữa phát triển vùng biển, ven biển và hải đảo với phát triển vùng nội địa.
Tiếp sau đó, để cụ thể hoá NQ36 của Trung ương, ngày 05 tháng 3 năm 2020, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã thay mặt Chính phủ ký Nghị quyết số 26/NQ-CP (NQ26) ban hành Kế hoạch tổng thể và kế hoạch 5 năm của Chính phủ thực hiện NQ36.
Như vậy có thể khẳng định, NQ36 và NQ26 đã đạt được sự thống nhất về tư tưởng, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng đặc biệt của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân Việt Nam.
5 chủ trương, 3 khâu đột phá, 7 giải pháp triển khai Chiến lược kinh tế biển
Với mục tiêu tổng quát là “đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, NQ36 cũng nêu mục tiêu cụ thể từ nay đến năm 2030 phấn đấu các ngành kinh tế thuần biển đóng góp khoảng 10% GDP cả nước; kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển ước đạt 65 - 70% GDP cả nước. Các ngành kinh tế biển phát triển bền vững theo các chuẩn mực quốc tế; kiểm soát khai thác tài nguyên biển trong khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển. Nghị quyết đã đưa ra 5 chủ trương lớn, 3 khâu đột phá và 7 giải pháp chủ yếu để triển khai thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế biển.
Cụ thể, Nghị quyết đề ra 05 chủ trương lớn: Phát triển kinh tế biển và ven biển; Phát triển các vùng biển dựa trên lợi thế về điều kiện tự nhiên, hài hoà giữa bảo tồn và phát triển; Bảo vệ môi trường, bảo tồn, phát triển bền vững đa dạng sinh học biển; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và phòng, chống thiên tai; Nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng văn hoá biển, xã hội gắn bó, thân thiện với biển; Bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế.
03 khâu đột phá: Hoàn thiện thể chế phát triển bền vững kinh tế biển, ưu tiên hoàn thiện hành lang pháp lý, đổi mới, phát triển mô hình tăng trưởng xanh, bảo vệ môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh quốc tế của các ngành kinh tế biển, các vùng biển, ven biển; Hoàn thiện cơ chế quản lý tổng hợp và thống nhất về biển; Rà soát, điều chỉnh, bổ sung và lập mới các quy hoạch liên quan đến biển, bảo đảm tính liên kết, đồng bộ giữa các ngành, địa phương.
Phát triển khoa học, công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực biển chất lượng cao, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, tận dụng thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, khoa học, công nghệ mới, thu hút chuyên gia, nhà khoa học hàng đầu, nhân lực chất lượng cao.
Phát triển kết cấu hạ tầng đa mục tiêu, đồng bộ, mạng lưới giao thông kết nối các trung tâm kinh tế lớn của cả nước, các khu công nghiệp, khu đô thị, các vùng biển với các cảng biển dựa trên hệ sinh thái kinh tế và tự nhiên, kết nối chiến lược Bắc - Nam, Đông - Tây giữa các vùng trong nước và với quốc tế.
07 giải pháp chủ yếu: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về phát triển bền vững biển, tạo đồng thuận trong toàn xã hội; Hoàn thiện thể chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về phát triển bền vững kinh tế biển; Phát triển khoa học, công nghệ và tăng cường điều tra cơ bản biển; Đẩy mạnh giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực biển; Tăng cường năng lực bảo đảm quốc phòng, an ninh, thực thi pháp luật trên biển; Chủ động tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển; Huy động nguồn lực, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư cho phát triển bền vững biển, xây dựng các tập đoàn kinh tế biển mạnh.
Hợp tác quốc tế về kinh tế biển - nâng cao vị thế, vai trò của Việt Nam
Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế biển, TS. Tạ Đình Thi, khẳng định: Với phương châm chủ động tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại và hợp tác quốc tế về biển, NQ36, NQ26 đã kế thừa và phát triển những nội dung liên quan từ thực tiễn đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển của giai đoạn trước và đề ra những chủ trương, giải pháp triển khai cụ thể, phù hợp với hoàn cảnh đất nước và xu thế của thời đại.
Nhằm triển khai thực hiện NQ36, NQ26 và hướng tới Thập kỷ của Liên hợp quốc về Khoa học biển vì sự phát triển bền vững giai đoạn 2021 - 2030, ngày 18/5/2020, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã ký Quyết định phê duyệt Đề án hợp tác quốc tế về phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030.
Đây là một bước tiến quan trọng nhằm thúc đẩy hợp tác quốc tế về phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam, nhằm thực hiện có hiệu quả và thành công các quan điểm, mục tiêu, chủ trương lớn, khâu đột phá và giải pháp chủ yếu được đề ra tại NQ36, NQ26; đóng góp có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế về vấn đề biển và đại dương; nâng cao vai trò và vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.
Để triển khai hiệu quả Đề án trên, Việt Nam mong muốn thông qua hoạt động hợp tác quốc tế để huy động các nguồn lực, tri thức, kinh nghiệm và tranh thủ tối đa sự ủng hộ của các nước, các tổ chức quốc tế và các đối tác phục vụ sự nghiệp phát triển bền vững kinh tế biển theo yêu cầu đề ra tại NQ36, NQ26.
TS. Tạ Đình Thi cũng nhấn mạnh, Việt Nam ưu tiên hợp tác với các nước, các đối tác có nền kinh tế và công nghệ biển hiện đại, tiên tiến trên thế giới. Việt Nam sẽ phối hợp chặt chẽ với các tổ chức quốc tế, khu vực và các quốc gia liên quan, đặc biệt các quốc gia phát triển có kinh nghiệm trong quản lý biển nhằm tranh thủ sự hỗ trợ về kỹ thuật, công nghệ, trao đổi về thông tin và kinh nghiệm; chủ động đề xuất, tiếp cận các dự án, nguồn kinh phí quốc tế cho đầu tư phát triển, nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chuyên môn, cũng như nâng cao nhận thức của cộng đồng ven biển. Tăng cường ngoại giao song phương, ngoại giao đa phương; chủ động và tích cực đăng cai tổ chức các diễn đàn, hội nghị, hội thảo quốc tế về phát triển bền vững kinh tế biển; tích cực tham gia các điều ước quốc tế và chủ động thúc đẩy hình thành cơ chế hợp tác toàn cầu và khu vực liên quan đến biển và đại dương.
Cũng theo TS Tạ Đình Thi, việc thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đã đạt được sự thống nhất về tư tưởng, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng đặc biệt của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân Việt Nam; cho thấy sự vào cuộc, chung tay của các cấp, các ngành, chính quyền địa phương và toàn thể nhân dân trong cả nước và kiều bào ta ở nước ngoài trong việc thực hiện Chiến lược.
“Việt Nam mong muốn nhận được sự ủng hộ của các nước bạn trong các vấn đề về phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam; có cơ hội giao lưu, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm, tiếp cận các thành tựu khoa học tiên tiến; tiếp nhận hỗ trợ tài chính, công nghệ, tăng cường năng lực trong 6 lĩnh vực chính như đã nêu trên; qua đó tăng cường hợp tác đa phương, song phương trên các lĩnh vực về biển và đại dương, đặc biệt là các vấn đề về: Phát triển các ngành kinh tế biển; đầu tư, phát triển công tác điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học - công nghệ, phát triển nguồn nhân lực biển; quy hoạch không gian biển, quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ; các vấn đề hợp tác về ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm nhập mặn và vấn đề về rác thải nhựa đại dương...”, TS Tạ Đình Thi cho biết./.