Logo báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam

Cơ chế, chính sách về giáo dục - đào tạo còn nhiều bất cập

Thứ Ba, 05/06/2018 15:34 (GMT+0)
zalo-icon
viber-icon

(ĐCSVN) - Chất lượng giáo dục đại học phụ thuộc một phần vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nền kinh tế Việt Nam hiện nay vẫn ở mức thu nhập trung bình thấp nên các nguồn lực và điều kiện dành cho giáo dục đại học chưa đáp ứng yêu cầu để cạnh tranh về chất lượng so với các nước có trình độ phát triển kinh tế cao hơn.

Báo cáo với Quốc hội về thực trạng và giải pháp chất lượng giáo dục đại học, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) Phùng Xuân Nhạ cho biết, trong 2 năm gần đây, số lượng các cơ sở giáo dục đại học đạt tiêu chuẩn kiểm định quốc tế và trong nước tăng lên đáng kể. Đến nay, cả nước có khoảng 90 cơ sở giáo dục đại học được công nhận bởi tổ chức kiểm định trong nước và 05 cơ sở giáo dục đại học được công nhận bởi tổ chức đánh giá/kiểm định quốc tế.

Bên cạnh đó, có 112 chương trình đào tạo đại học đã được đánh giá và công nhận, gồm 08 chương trình đánh giá theo tiêu chuẩn trong nước; 104 chương trình đánh giá theo tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Số trường đại học Việt Nam đã có tên trong bảng xếp hạng top 400 trường của khu vực châu Á ngày càng tăng. Năm 2017 có 5 trường trong top này cho thấy bước đầu có chuyển biến tích cực về chất lượng đào tạo.

Ảnh minh họa. Nguồn: VA

Tỷ lệ cử nhân thất nghiệp là không quá lớn

Tuy nhiên, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ thừa nhận, chất lượng đào tạo chưa cao, đặc biệt là đào tạo sau đại học, liên kết, liên thông… nên còn khoảng 200.000 lao động trình độ đại học trong độ tuổi lao động chưa có việc làm; chưa thu hút được sinh viên giỏi vào sư phạm để nâng cao chất lượng giáo dục.

Một số trường đại học sau thời gian hoạt động chưa đủ các điều kiện đảm bảo chất lượng theo đề án thành lập trường dẫn đến chất lượng đào tạo thấp, khó tuyển sinh, không đủ nguồn lực để nâng cao chất lượng.

Nêu nguyên nhân về hạn chế trên, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT cho rằng, chất lượng giáo dục đại học phụ thuộc một phần vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nền kinh tế Việt Nam hiện nay vẫn ở mức thu nhập trung bình thấp nên các nguồn lực và điều kiện dành cho giáo dục đại học chưa đáp ứng yêu cầu để cạnh tranh về chất lượng so với các nước có trình độ phát triển kinh tế cao hơn.

Về lao động có trình độ đại học không có việc làm, theo Bộ trưởng Nhạ, nếu tính số lượng trong độ tuổi lao động (15 - 60 tuổi) có tới khoảng 200.000 lao động có trình độ đại học không có việc làm, nhưng nếu tính trong tổng số hơn 5 triệu lao động trình độ đại học thuộc độ tuổi này thì tỷ lệ không quá lớn (năm 2017 tỷ lệ này khoảng từ gần 3% đến 4,5%), chủ yếu là làm việc không đúng ngành hoặc không muốn chấp nhận dịch chuyển đến nơi thiếu lao động.

“Đây cũng là tình trạng chung của hầu hết các nước trên thế giới” – Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ nhấn mạnh.

Bên cạnh đó, Bộ trưởng cho rằng, cơ chế, chính sách chưa tạo động lực khởi nghiệp, lập nghiệp; Có sự chênh lệch đáng kể giữa điều kiện sống giữa các vùng miền nên tạo ra thừa thiếu cục bộ, nhiều nơi vẫn thiếu nhưng không thu hút được lao động trình độ cao. Chưa đầu tư các điều kiện đảm bảo chất lượng tương xứng với yêu cầu

Về nguyên nhân chủ quan thuộc trách nhiệm của Bộ Giáo dục và Đào tạo và các bộ, ngành, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT cho rằng, do cơ chế, chính sách về giáo dục đào tạo còn nhiều bất cập, phạm vi tự chủ đại học còn hẹp; quản lý đào tạo chưa theo chuẩn quốc tế nên hạn chế trong liên thông, liên kết, trao đổi sinh viên giữa Việt Nam với nước ngoài.

Cơ sở giáo dục đại học chưa được tự chủ cao trong mở ngành đào tạo, liên kết, hợp tác quốc tế, nhân sự, tài chính, tài sản... Chưa đầu tư các điều kiện đảm bảo chất lượng tương xứng với yêu cầu. Tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ thấp, tỷ lệ sinh viên/giảng viên cao ; thu nhập của giảng viên đại học thấp, chưa thu hút được nhiều người giỏi và chưa tạo động lực làm việc.

Bên cạnh đó, tài chính eo hẹp, chi phí thấp, cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm nghèo nàn, chưa tạo môi trường làm việc cho các nhà khoa học giỏi; Chính sách khuyến khích và thúc đẩy đầu tư từ khu vực tư nhân chưa đồng bộ, chưa đủ mạnh để tạo cơ chế thúc đẩy sự bình đẳng thực sự giữa các trường thuộc khối công lập và ngoài công lập.

Việc thành lập trường, mở ngành, xác định chỉ tiêu tuyển sinh… chủ yếu dựa trên năng lực của cơ sở đào tạo, chưa bám sát nhu cầu thị trường lao động...

Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đại học

Nhấn mạnh về các giải pháp, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT cho biết, trước hết, cần  hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển giáo dục đại học. Trình Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học; trình Chính phủ ban hành Nghị định tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập…

Trình Thủ tướng Chính phủ ban hành quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học và đào tạo giáo viên theo các quy chuẩn chất lượng, phù hợp với Nghị quyết 19-NQ/TW và Luật Quy hoạch; xây dựng Chiến lược tổng thể phát triển giáo dục đại học giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2035; kế hoạch và giải pháp tăng cường số lượng các trường đại học Việt Nam có mặt trong các bảng xếp hạng quốc tế.

Đẩy mạnh hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong và bên ngoài; đẩy mạnh hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục, tập trung vào kiểm định chương trình đào tạo.

Tăng cường đầu tư, đổi mới cơ chế tài chính giáo dục đại học, các trường tự xác định mức học phí tương xứng với chất lượng đại học; ưu tiên đầu tư ngân sách để phát triển một số cơ sở giáo dục đại học, ngành đào tạo mang tầm khu vực, quốc tế và cơ sở đào tạo giáo viên chất lượng cao; phát triển một số ngành, vùng đặc thù để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; có cơ chế phân bổ nguồn lực cho giáo dục đại học theo nguyên tắc cạnh tranh, bình đẳng, hiệu quả…

Đổi mới chương trình đào tạo theo hướng hiện đại, đáp ứng yêu cầu của thị trường, phát triển tư duy sáng tạo của học viên; quản lý chất lượng tổng thể bao gồm quản lý các điều kiện đầu vào, quản lý quá trình đào tạo và quản lý chất lượng đầu ra phù hợp với khung trình độ quốc gia; triển khai các giải pháp nâng cao khả năng có việc làm của sinh viên sau tốt nghiệp.

Công bố các điều kiện đảm bảo chất lượng, tỷ lệ có việc làm của sinh viên tốt nghiệp, các sản phẩm khoa học công nghệ của trường.

Tăng cường thanh tra, kiểm tra, xây dựng lại hệ thống chế tài xử phạt nặng hơn đối với vi phạm chất lượng giáo dục đại học và xử lý nghiêm đối với vi phạm; công bố công khai kết quả kiểm định, kết quả thanh, kiểm tra, xử lý vi phạm; công bố công khai kết quả kiểm định, kết quả thanh, kiểm tra, xử lý vi phạm để rút kinh nghiệm và phòng ngừa chung./.

Mỹ Anh

có thể bạn quan tâm

Ý KIẾN BÌNH LUẬN