Logo báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam

Bảo tồn góp phần phục hồi đàn hổ tự nhiên ở Việt Nam

Thứ Tư, 13/09/2023 15:53 (GMT+0)
zalo-icon
viber-icon

(ĐCSVN) - Các chuyên gia đánh giá, nuôi hổ để bảo tồn góp phần phục hồi đàn hổ tự nhiên ở Việt Nam, nhưng việc nuôi nhốt hổ và động vật hoang dã khác không vì mục đích thương mại vẫn còn nhiều bất cập, cần có chính sách rõ ràng, cụ thể hơn nhằm kiểm soát chặt chẽ hoạt động sinh sản của hổ cũng như xử lý hổ chết.

Tháng 8/2021, lực lượng chức năng tiêm thuốc mê và vận chuyển hổ bị nuôi nhốt trái phép ở Đô Thành, Yên Thành, Nghệ An về khu sinh thái nhờ chăm sóc 

Hổ trong đời sống người Việt Nam    

Được mệnh danh là chúa sơn lâm, hổ đứng đầu trong thế giới động vật bởi sức mạnh phi thường và nhiều khả năng đặc biệt. Từ xưa đến nay, nó cũng thể hiện những vai trò quan trọng, mật thiết, tạo nên ảnh hưởng sâu rộng và phong phú trong cả đời sống vật chất lẫn tinh thần của người Việt Nam.

Ở Việt Nam, hổ được gọi bằng rất nhiều tên. Người Việt gọi là hổ, cọp, hùm, kễnh; khái, mãnh (miền Trung); thầy, hạm, (miền Nam) và các tên ẩn dụ như chúa sơn lâm, chúa tể rừng xanh, ông thầy, ông cả cọp, ông ba mươi. Người Thái gọi là tu xưa, xưa cả, xưa cản tao, người Mường - tu khán, người M'Nông - rơnong, người Êđê - êman, người Khơ Mú - rvai, người Hà Nhì - khà dừ, người Tà Ôi - avó, người La Hủ - hủ... Uy danh chúa sơn lâm còn ảnh hưởng đến tên gọi nhiều sinh vật hùng mạnh nhất trong họ mình hoặc có hình thức, cấu tạo giống bộ phận nào đó của cơ thể hổ: tôm hùm, rắn hổ, lá lưỡi cọp, cây ba mươi .v.v...

So với các loài hổ trên thế giới, hổ Việt Nam (thuộc loài hổ Đông Dương - một trong 9 nòi/phân loài hổ hiện còn trên thế giới) có tầm vóc trung bình, hơi nhỏ: con trưởng thành nặng chừng 106-142 kg, thân dài 153-160 cm, đuôi dài 67-88 cm, bàn chân sau dài 31-33 cm. Bộ lông màu vàng nhạt, vàng sẫm hoặc vàng đỏ với các vằn và khoanh màu đen hoặc nâu đen. Chúng sống rải rác ở các tỉnh miền núi, hiện có thể gặp ở 17 tỉnh và 14 khu bảo tồn, tập trung tại các huyện Mường Nhé (Điện Biên), Minh Hóa, Tuyên Hóa (Quảng Bình), Giằng, Trà My, Phước Sơn (Quảng Nam), Sa Thầy (Kon Tum), Easup (Dak Lak). Sách đỏ Việt Nam có đánh dấu trên bản đồ 27 vùng nhiều hổ nhất.

Con hổ là một đối tượng đặc biệt trong cuộc sống vật chất và tinh thần của người Việt Nam xưa nay. Các triều đại phong kiến coi hổ, rồng là những biểu trưng vương quyền, vì vậy hình ảnh hổ xuất hiện phổ biến và trang trọng nơi cung cấm. Từ thời Đinh (968-979), hầu hết các vua chúa đều nuôi hổ để giải trí và làm đao phủ trừng phạt phạm nhân. Từ thời Trần (1226-1400), những cuộc đấu giữa hổ với voi (gọi là “hổ quyền”) được tổ chức rầm rộ, đến thời Nguyễn được nâng lên thành lễ hội và tận năm 1904 mới chấm dứt. Động tác, tư thế và sức mạnh phi thường của hổ được thể hiện qua nhiều bài quyền, thế võ, môn võ về hổ. Các võ tướng thời xưa có phù hiệu, ấn tín khắc hình đầu hổ (gọi là “hổ phù”). Xiếc hổ Việt Nam cũng xuất hiện từ khá sớm với nhiều nghệ sĩ tài năng, có người đã nổi tiếng toàn thế giới (như nhà luyện hổ Tạ Duy Hiển - người khai sinh ngành xiếc Việt Nam).

Hình ảnh con hổ đi vào nền văn hóa dân gian nước ta với những biểu hiện, những hình thức phong phú và đặc sắc. Người Việt Nam có hàng ngàn câu ngạn ngữ, phương ngữ, thành ngữ, tục ngữ, ca dao, dân ca liên quan tới hổ (thông dụng và tiêu biểu là các câu cáo mượn oai hùm, điệu hổ ly sơn, hổ mọc thêm cánh, hổ phụ sinh hổ tử, hổ vằn ngoài da - người vằn trong bụng, thả hổ về rừng, dữ như cọp, khỏe như hùm, mạnh như hổ, thế cưỡi hổ, miệng hùm gan sứa, rồng cuộn hổ ngồi, hùm nằm cho lợn liếm lông/một trăm quả hồng nuốt lão tám mươi, mèo tha miếng mỡ thì la/cọp tha con lợn cả nhà im hơi…). Hổ là đề tài trung tâm của hàng trăm chuyện cổ tích, ngụ ngôn, huyền thoại, giai thoại, dã sử (phổ biến và điển hình là các tác phẩm Trí khôn của ta đây, Mắc mưu thỏ trắng, Phùng Hưng tay không hạ hổ, Hùm thiêng Yên Thế…). Hổ còn gợi nguồn cảm hứng mạnh cho nhiều thi sĩ để họ viết nên những bài thơ độc đáo (như bài Nhớ rừng của Thế Lữ năm 1932). Hổ cũng là đối tượng nghệ thuật hấp dẫn thể hiện trên những vật dụng sinh hoạt thường ngày, nhà cửa, nơi thờ tự… - tiêu biểu nhất phải kể đến hình tượng hổ trên nắp thạp đồng Vạn Thắng (Phú Thọ), tấm phù điêu nông dân đâm hổ ở đình Chảy (Hà Nam), bức chạm khắc gỗ hổ chạy ở đình Lỗ Hạnh (Bắc Ninh) và bức chạm khắc gỗ chàng trai cưỡi hổ ở đình Tiên Kỳ (Nghệ An). Trong các đình, chùa, đền, miếu thường chạm khắc hình hổ, thể hiện sự linh thiêng, bất khả xâm phạm. Có nhiều đền, miếu thờ ông hổ, thần hổ trên khắp mọi vùng miền đất nước (nhất là ở Nam Bộ). Đặc biệt, hội họa dân gian Việt Nam đã thần thánh hóa con hổ với trường phái tranh thờ Hàng Trống - chuyên vẽ tranh hổ (hoàng hổ, xích hổ, thanh hổ, bạch hổ, hắc hổ, tứ hổ, ngũ hổ…) để treo thờ trong tư cách là những vị thần trấn giữ các phương trời đất. Hổ còn nhập hệ lịch can chi 12 con vật, là biểu tượng chi Dần với những ý nghĩa triết lý, nhân văn sâu sắc. Trong phong thủy, hổ tượng trưng cho quyền uy, mạnh mẽ, linh hoạt và bản lĩnh. Tháng con hổ là tháng Giêng, đầu xuân, đầu năm mới, tháng mà 3 khí dương (của trời) cân bằng với 3 khí âm (của đất), do đó cũng là tháng mở đầu của con người (nhân sinh ư dần), vì con người là sự cân bằng giữa trời - đất và con người khỏe mạnh là sự cân bằng âm - dương, nóng - lạnh từ nội tạng…

Người Việt Nam đánh giá rất cao tầm quan trọng và lợi ích kinh tế (nhất là giá trị dược liệu) của hổ, đồng thời cũng từng phải chịu không ít hậu quả do hổ gây ra. Nhiều trường hợp hổ mò vào các bản làng miền núi, bắt gia súc, gia cầm và cả người, gây tổn thất vật chất cùng tâm lý lo sợ cho nhân dân. Các mặt lợi - hại kể trên cộng với những nhu cầu, quan niệm thái quá của con người khiến hổ ở Việt Nam từ xưa đã bị săn bắt ráo riết chẳng kém gì ở những nơi khác trên thế giới. Tại thị trường chợ đen hiện nay, vẫn còn tình trạng giao bán cao hổ cốt xịn với giá cao ngất ngưởng. Số lượng hổ giảm nhanh chóng, cả nước ta bây giờ còn chừng 250 con hổ hoang dã và khoảng 400 con nuôi nhốt hợp pháp trong các vườn thú, trang trại (Bình Dương đang có nhiều nhất  với một số chủ doanh nghiệp tỉnh này nuôi tổng cộng tới 71 con hổ; tiếp đó là các tỉnh Bắc Trung Bộ: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, nhưng cũng phát hiện có hộ nuôi hổ chui, bất hợp pháp).

Ngay từ năm 1963, Nhà nước Việt Nam đã ban hành sắc lệnh bảo vệ hổ. Những năm gần đây, nhiều biện pháp cụ thể cũng được thực hiện: ban hành nghị định, quyết định, thông tư, chỉ thị… cấm săn bắt, buôn bán hổ và tiến hành xử lý nghiêm những kẻ vi phạm; lập hàng chục khu bảo vệ, rừng cấm; phối hợp với Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (WWF) khảo sát, tạo môi trường sống thuận lợi tại những nơi hổ thường xuất hiện như Mường Nhé, Vụ Quang, Cát Lộc, Nam Cát Tiên… Ngày 29/07/2011, lễ kỷ niệm ngày Quốc tế về Bảo tồn Hổ lần đầu tiên được Việt Nam tổ chức tại Công viên Thống Nhất (Hà Nội) và sau đó chính quyền tiến hành xây dựng dự án chi 49 triệu USD để bảo tồn, phát triển hổ hoang dã. Trong tương lai, chúng ta cần có các biện pháp toàn diện, hữu hiệu hơn nữa để giữ lấy loài thú đặc biệt, quý hiếm này.

Bảo tồn hổ ở Việt Nam

Tại Tọa đàm “Năm Hổ và câu chuyện nuôi hổ để bảo tồn tại Việt Nam”, do Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên (ENV) tổ chức chiều 17/1/2022 tại Hà Nội, các chuyên gia nhận định, trong bối cảnh hổ đang đối mặt nguy cơ tuyệt chủng rất lớn, nuôi hổ để bảo tồn là một giải pháp cần thiết để góp phần phục hồi quần thể hổ tự nhiên tại Việt Nam.

Nuôi hổ để bảo tồn là một dạng thức của hoạt động bảo tồn ngoại vi hay chuyển vị. Theo đó, hổ được nuôi với mục tiêu phục hồi, tái thả về môi trường tự nhiên. Đây là một quá trình lâu dài, tốn kém và đòi hỏi phải có kế hoạch cụ thể cũng như đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đảm bảo hổ được nuôi nhốt phải có nguồn gien thuần chủng của phân loài hổ Đông Dương. Phải xác định được môi trường tái thả và kế hoạch tái thả phù hợp. Hổ cần phải có sức khỏe đảm bảo, mang đầy đủ bản năng tự nhiên.

Theo số liệu thống kê của ENV, hơn 10 năm qua, số lượng hổ nuôi nhốt có đăng ký tại Việt Nam tăng mạnh từ 97 (năm 2010) lên 364 (năm 2021) tại 22 cơ sở, chủ yếu là các trang trại và sở thú tư nhân. Tất cả các cơ sở này đều đã được đăng ký hoặc đặt dưới sự quản lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để nuôi hổ không vì mục đích thương mại. Nhưng đối chiếu với các điều kiện và mục tiêu của hoạt động nuôi hổ bảo tồn, ENV cho rằng, không có bất cứ cơ sở nào trong những cơ sở nuôi nhốt hổ tại Việt Nam đang thực hiện hoạt động này.

Năm 2012, khi đánh giá các cơ sở nuôi nhốt hổ để báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Bộ NN&PTNT nhận định: “Hiện nay (báo cáo tại văn bản số 705/BNN-TCLN ngày 19/3/2012), các cơ sở không phân biệt được các loài hổ, việc nuôi nhốt chung giữa các phân loài dẫn đến di truyền cận huyết, lai chéo giữa ba phân loài hổ, thế hệ F1 sinh ra không có khả năng thích nghi và không có ý nghĩa đối với bảo tồn hổ tự nhiên ở Việt Nam”.

Dẫu vậy, đến nay, các quy định quản lý đối với các cơ sở nuôi nhốt hổ và động vật hoang dã (ĐVHD) khác không vì mục đích thương mại vẫn chưa toàn diện, chưa giải quyết được bài toán đóng góp cho công tác bảo tồn hổ, ENV đánh giá.

Theo quy định hiện hành, chủ cơ sở nuôi hổ không vì mục đích thương mại không bị yêu cầu kiểm soát sinh sản hay đảm bảo nguồn gien thuần chủng, khỏe mạnh của hổ và các loài ĐVHD khác, mà chỉ cần ghi chép sổ theo dõi. Theo ENV, việc xử lý hổ hay các loài ĐVHD chết tại những cơ sở này hay trong trường hợp cơ sở bị hủy mã số, rút giấy phép cũng chưa được quy định.

Phó Giám đốc ENV, bà Bùi Thị Hà, nhận định: “Hoạt động nuôi nhốt hổ không vì mục đích thương mại sẽ có thể được coi là nguồn cho công tác bảo tồn hổ ngoại vi nếu được đặt dưới sự quản lý và giám sát chặt chẽ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, việc thiếu các quy định toàn diện để quản lý hoạt động này không những khiến cho hoạt động này phát triển một cách mất kiểm soát mà sẽ là cơ hội cho các đối tượng buôn bán ĐVHD trái phép lợi dụng, núp bóng cơ sở được cấp phép để lén lút mua bán, trao đổi hổ và các loài ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm khác vì mục đích lợi nhuận”.

Theo ENV, thời gian tới, Cục Kiểm lâm, Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT) sẽ thực hiện “Điều tra, thống kê và lập hồ sơ quản lý toàn bộ số hổ đang được nuôi tại Việt Nam; thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia để quản lý, nhận dạng các cá thể hổ nuôi (thực hiện qua hồ sơ gien, hình ảnh, gắn chip điện tử và gắn thẻ đánh dấu”.

ENV nhận định, việc lập hồ sơ quản lý, nhận dạng hổ sẽ chỉ thực sự phát huy hiệu quả nếu được tiến hành đồng thời với một chính sách rõ ràng nhằm kiểm soát chặt chẽ hoạt động sinh sản của hổ cũng như xử lý các trường hợp hổ chết tại các cơ sở nuôi nhốt đã đăng ký trong bối cảnh chưa có văn bản pháp lý đề cập chi tiết về hai vấn đề quan trọng này.

Do đó, ENV đề xuất Chính phủ và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan để thắt chặt quản lý hoạt động nuôi nhốt hổ. Trước mắt, có thể ban hành một chính sách cụ thể về hoạt động nuôi nhốt hổ, trong đó có quy định kiểm soát sinh sản đối với hổ nuôi nhốt nhằm đảm bảo duy trì số lượng hổ chỉ ở mức hỗ trợ công tác bảo tồn, cũng như xây dựng các cơ chế giám sát để đảm bảo các cơ sở không tham gia vào bất kỳ hoạt động buôn bán ĐVHD trái phép nào.

Về lâu dài, có thể xem xét xây dựng một văn bản quy phạm pháp luật riêng để quản lý toàn diện hoạt động của các cơ sở nuôi ĐVHD không vì mục đích thương mại, trong đó có các cơ sở nuôi nhốt hổ, để tạo tiền đề cho hoạt động của các cơ sở hợp pháp, cũng như ngăn chặn việc các đối tượng lợi dụng vỏ bọc cơ sở nuôi hổ không vì mục đích thương mại để buôn bán ĐVHD trái phép.

Cam kết gấp đôi số hổ hoang dã vào năm 2022

Tại Hội nghị thượng đỉnh về hổ diễn ra năm 2010 tại Nga, 13 quốc gia có phân bố tự nhiên của hổ (Bhutan, Bangladesh, Campuchia, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Nepal, Nga, Thái Lan và Việt Nam) cam kết tăng gấp đôi số lượng hổ hoang dã trên thế giới vào năm 2022 (năm Nhâm Dần).

Năm 2014, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về bảo tồn hổ giai đoạn 2014-2022, nhằm bảo vệ, bảo tồn hổ, sinh cảnh và con mồi của hổ, góp phần ngăn chặn sự suy giảm, từng bước phục hồi, cải thiện và tăng số lượng hổ tự nhiên đến năm 2022 theo mục tiêu của Hội nghị thượng định về hổ.

Ấn Độ, Nepal, Bhutan, Nga, Trung Quốc… đã đạt được thành công nhất định trong việc gia tăng số lượng hổ hoang dã, giúp đưa số lượng hổ trên toàn cầu từ khoảng 3.200 (năm 2010) lên ít nhất 3.890 (năm 2016). Tuy nhiên, Việt Nam đang phải đối diện khả năng hổ đã tuyệt chủng trong tự nhiên, theo ENV.

Tổ chức quốc tế về bảo tồn thiên nhiên (WWF) ước tính, năm 2016, Việt Nam chỉ còn ít hơn 5 con hổ trong tự nhiên. Con số này của WWF được lấy từ ước tính của IUCN năm 2015 do kể từ năm 2009, không có ghi nhận nào về hổ hoang dã tại Việt Nam và nước ta cũng không thực hiện khảo sát quốc gia về hổ tự nhiên. Dù chưa có tuyên bố chính thức, nhưng nhiều chuyên gia cho rằng hổ có thể đã tuyệt chủng tại Việt Nam.

-------------------

Tài liệu tham khảo:

1.      https://bidiusta.binhdinh.gov.vn/news/lien-hiep-hoi/con-ho-trong-doi-song-nguoi-viet-nam-650.html

2.      https://tienphong.vn/nuoi-ho-de-bao-ton-hay-nau-cao-post1410535.tpo

VM (T/h)

có thể bạn quan tâm

Ý KIẾN BÌNH LUẬN