LỜI TÒA SOẠN: Ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, người có uy tín (NCUT) có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, giữ gìn an ninh trật tự, xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới... Nói một cách hình tượng, NCUT chính là lực lượng quần chúng đặc biệt, là nhịp cầu nối gắn kết giữa ý Đảng và lòng dân và là trung tâm của khối đại đoàn kết các dân tộc trong cộng đồng dân cư.
Tuy nhiên, sau 10 năm (2011 - 2021) thực hiện chính sách đối với NCUT trong đồng bào dân tộc thiểu số, đã nảy sinh nhiều vấn đề mới cần được nghiên cứu, thống nhất nhận thức, đồng thời đề xuất ban hành, triển khai những cơ chế, chính sách mới nhằm tạo động lực phát huy hiệu quả vai trò của lực lượng quần chúng đặc biệt này.
Bài 1: Người có uy tín là "điểm tựa cho mọi điểm tựa khác"
(ĐCSVN) – Người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số là lực lượng quần chúng đặc biệt, có vị trí, vai trò quan trọng, góp phần đắc lực giúp các cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng, Nhà nước tổ chức thực hiện thắng lợi chức năng, nhiệm vụ được giao; đồng thời, thông qua họ nắm bắt tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của người dân gửi tới Đảng, Nhà nước. Nói một cách hình tượng, NCUT là nhịp cầu nối gắn kết giữa ý Đảng và lòng dân.
Gần 30 năm trước, Chỉ thị số 45-CT/TW ngày 23/9/1994 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về một số công tác ở vùng dân tộc Mông đã yêu cầu: “Ban Tổ chức Trung ương cùng với Ban Tổ chức và Cán bộ của Chính phủ xây dựng chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ đối với cán bộ cơ sở, trưởng bản, già làng, trưởng dòng họ, cán bộ nghỉ hưu, lực lượng vũ trang… tham gia hoạt động trong vùng dân tộc Mông”.
Trong Chỉ thị 45-CT/TW ngày 23/9/1994 của Ban Chấp hành Trung ương chưa đề cập cụ thể khái niệm NCUT, nhưng nhóm người già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ, cán bộ nghỉ hưu (nòng cốt của người tiêu biểu, có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số sau này) lần đầu tiên đã được nêu lên trong một văn bản quan trọng của Đảng với tư cách như một bộ phận chủ thể có vai trò quan trọng trong việc ổn định và phát triển tình hình kinh tế - xã hội của vùng dân tộc Mông.
Hai năm sau khi Chỉ thị 45-CT/TW được ban hành, trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (năm 1996) yêu cầu: “Động viên, phát huy vai trò của những người tiêu biểu, có uy tín trong dân tộc và ở địa phương”.
Như vậy, từ năm 1996, lần đầu tiên cụm từ “người tiêu biểu, có uy tín trong đồng bào dân tộc và ở địa phương” đã được nêu đích danh trong văn kiện của Đảng, làm căn cứ chính trị cho các văn kiện khác sau này chính thức sử dụng. Tiêu biểu là Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về công tác dân tộc (Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003: “Có chính sách động viên, bồi dưỡng, hướng dẫn và phát huy vai trò của những NCUT trong đồng bào dân tộc trong việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các địa bàn dân cư vùng dân tộc và miền núi”.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (năm 2006) nhấn mạnh: “Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; động viên, phát huy vai trò của những người tiêu biểu trong các dân tộc”.
Tiếp đó là một loạt các văn bản khác của Đảng nêu rõ yêu cầu phát huy vai trò NCUT trong đồng bào dân tộc thiểu số, đó là: Kết luận 57-KL/TW ngày 03/11/2009 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới; Kết luận số 68-KL/TW ngày 10/9/2013 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng cốt cán và phát huy vai trò của NCUT trong cộng đồng người Hoa; Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 20/10/2015 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI về tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Đảng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Mới đây nhất, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục yêu cầu: “Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, NCUT tiêu biểu trong vùng dân tộc thiểu số”…
Cụ thể hóa đường lối của Đảng về phát huy vai trò NCUT trong đồng bào dân tộc thiểu số qua các kỳ Đại hội, Chính phủ đã ban hành một số nghị định, Thủ tướng Chính phủ ban hành chỉ thị, quyết định, tiêu biểu là: Chỉ thị số 06/2008/CT-TTg ngày 01/02/2008 của Thủ tướng Chính phủ về phát huy vai trò NCUT trong đồng bào dân tộc thiểu số trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ quy định Chính sách đối với NCUT ở vùng dân tộc thiểu số; Quyết định số 18/2011/QĐ-TTg ngày 18/3/2011 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách đối với NCUT trong đồng bào dân tộc thiểu số; Quyết định số 56/2013/QĐ-TTg ngày 7/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 18/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách đối với NCUT trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số; Quyết định số 2561/QĐ-TTg ngày 31/12/2016 về phê duyệt Đề án tăng cường vai trò của NCUT trong vùng dân tộc thiểu số; Quyết định số 12/QĐ-TTg ngày 6/3/2018 về tiêu chí lựa chọn, công nhận NCUT và chính sách đối với NCUT trong đồng bào dân tộc thiểu số…
Với số lượng lớn các chỉ thị, nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban chấp hành Trung ương Đảng và các nghị định của Chính phủ, chỉ thị, quyết định của Thủ tướng Chính phủ được ban hành liên tục từ sau năm 1996 đến nay cho thấy Đảng, Nhà nước ta đánh giá cao và hết sức coi trọng vị trí, vai trò của đội ngũ NCUT trong đồng bào dân tộc thiểu số trong quá trình lãnh đạo, tham gia tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh ở cơ sở.
Qua các giai đoạn, khái niệm NCUT ngày càng được hoàn thiện và chỉ rõ tại Quyết định số 12/QĐ-TTg ngày 6/3/2018 của Thủ tướng Chính phủ: “Là công dân Việt Nam, không phân biệt thành phần dân tộc, cư trú hợp pháp tại Việt Nam; bản thân và gia đình gương mẫu chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các quy định của địa phương; Là người tiêu biểu, có nhiều công lao, đóng góp trong các phong trào thi đua yêu nước, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ an ninh trật tự, giữ gìn bản sắc văn hóa và đoàn kết các dân tộc; Hiểu biết về văn hóa truyền thống, phong tục, tập quán dân tộc; có mối liên hệ chặt chẽ và có ảnh hưởng trong dòng họ, dân tộc và cộng đồng dân cư; Có khả năng quy tụ, tập hợp đồng bào dân tộc thiểu số trong phạm vi nhất định bằng lời nói, qua việc làm, được người dân trong cộng đồng tín nhiệm, tin tưởng, nghe và làm theo”.
T
rong tiến trình phát triển, tùy theo phong tục tập quán, mỗi dân tộc ở các vùng miền khác nhau đều có những NCUT tiêu biểu. Họ là già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ, các vị chức sắc, tôn giáo, nhân sĩ trí thức người dân tộc thiểu số… được cộng đồng suy tôn. NCUT luôn có vị trí, vai trò quan trọng không chỉ với gia đình, dòng họ mà còn có khả năng ảnh hưởng mạnh mẽ tới cộng đồng trong nhận thức về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cũng như huy động sự tham gia của Nhân dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ở góc độ hẹp, trong mỗi gia đình người dân tộc thiểu số, mọi sinh hoạt đời sống, quan hệ xã hội và lao động sản xuất luôn được điều hành, chi phối bởi NCUT nhất trong nhà.
Trong từng dòng họ, dù lớn hay nhỏ, đều có người đứng đầu là trưởng tộc hay trưởng họ để duy trì các hoạt động, nhất là trong các sinh hoạt tín ngưỡng nhớ về tổ tiên, cội nguồn, duy trì tôn ty, trật tự, quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của các gia đình đối với dòng họ, làng bản, cộng đồng và đất nước.
Trong đời sống, NCUT giữ vai trò đầu tàu đảm bảo sự vận hành của cộng đồng thông qua các công việc như: duy trì phong tục tập quán, ổn định trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy phát triển sản xuất, giải quyết mối quan hệ với các cộng đồng khác và với các cơ quan trong hệ thống chính trị, bộ máy nhà nước ở địa phương.
Bản thân và gia đình NCUT phải nắm vững, gương mẫu thực hiện và tích cực tuyên truyền, giải thích, vận động đồng bào các dân tộc trên địa bàn thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cũng như các quy định của địa phương. Họ cần chủ động nắm dư luận xã hội, tình hình đời sống, sản xuất, tâm tư, nguyện vọng của đồng bào để phản ánh kịp thời với các cơ quan chức năng. Họ tham gia ngăn ngừa, hòa giải các mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ nhân dân, góp phần giữ gìn an ninh, trật tự ở địa phương. Họ tích cực hưởng ứng, ủng hộ các cuộc vận động, phong trào thi đua tại địa phương để làm đòn bẩy kích thích phong trào phát triển...
Với dân tộc Mông sinh sống ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc, trưởng dòng họ là người có vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh. Với các dân tộc: Dao, Mường, Thái… thì những người thực hiện các nghi lễ tín ngưỡng, cầu cúng cho gia đình, dòng họ hoặc bản, làng (thầy mo, thầy cúng…) được đồng bào rất coi trọng.
Đối với các buôn làng vùng rừng núi Trường Sơn - Tây Nguyên, già làng là trụ cột quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển của cộng đồng. “Già làng nói - dân làng nghe, già làng hô - dân làng hưởng ứng, già làng làm - dân làng làm theo”. Già làng là cây sồi cổ thụ, là chỗ dựa tinh thần cho cả cộng đồng.
T
hực hiện các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, hướng dẫn của Ủy ban Dân tộc và Bộ Tài chính, các tỉnh, thành phố đã chỉ đạo, giao Ban Dân tộc chủ trì, phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các ngành chức năng liên quan tổ chức bình chọn, trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt danh sách NCUT trên địa bàn.
Căn cứ quyết định phê duyệt của các tỉnh, thành phố, Ủy ban Dân tộc thông báo tổng số NCUT của cả nước. Năm 2011, cả nước có 10.858 NCUT (thấp nhất); năm 2018, có 34.623 NCUT (cao nhất trong giai đoạn 2011 - 2021). Các năm còn lại, số lượng NCUT dao động khoảng trên, dưới 30 nghìn người.
Các tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung, Tây Nguyên có số lượng NCUT đông nhất. 17/52 tỉnh có từ 1.000 đến dưới 3.000 NCUT gồm: Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Gia Lai, Đắk Lắk, TP. HCM.
Thành phần NCUT được bình chọn rất đa dạng, trong đó phần lớn là các già làng, trưởng thôn, bản, cán bộ hưu trí, bí thư chi bộ, người sản xuất, kinh doanh giỏi. Tỷ lệ NCUT là đảng viên khá cao, năm 2020, đạt cao nhất, lên tới 37%.
Các dân tộc thiểu số đều có NCUT được bình chọn, trong đó các dân tộc: Tày, Thái, Mông, Mường, Khmer, Nùng, Dao, Hoa, Gia Rai, Ê-đê, Ba Na... có số lượng NCUT được bình chọn nhiều nhất. Các dân tộc thiểu số rất ít người (gồm: La Hủ, La Ha, Pà Thẻn, Lự, Ngái, Chứt, Lô Lô, Mảng, Cờ Lao, Bố Y, Si La, Pu Péo, Rơ Măm, Brâu, Ơ Đu) có số lượng NCUT được bình chọn ít nhất.
So sánh số lượng người có uy tín 02 năm (2019 - 2020) Nguồn: Báo cáo số 1312/TB-UBDT ngày 07/10/2020 của Ủy ban Dân tộc |
Tùy theo chức năng, nhiệm vụ, mỗi ngành sẽ phát huy NCUT theo những cách khác nhau, vì những mục đích khác nhau.
Mặt trận Tổ quốc thông qua NCUT để phát động, triển khai thực hiện các phong trào xây dựng nếp sống văn hóa, xây dựng đời sống mới, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc...
Ngành Dân vận thông qua NCUT để nắm tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của nhân dân, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chích sách, pháp luật của Nhà nước…
Ngành Dân tộc, Tôn giáo thông qua NCUT để nắm tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của đồng bào dân tộc thiểu số, người có đạo trong quá trình triển khai thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo…
Ngành Văn hóa thông qua NCUT để bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa độc đáo, đa dạng của cộng đồng 53 dân tộc thiểu số…
Các ngành: Công an, Quân đội thông qua NCUT để nắm tình hình cơ sở, phát động và triển khai các phong trào quần chúng tham gia bảo vệ an ninh trật tự, an toàn xã hội, đảm bảo quốc phòng …
Tóm lại, đội ngũ NCUT là lực lượng quần chúng đặc biệt, có vị trí, vai trò quan trọng, góp phần giúp các cơ quan trong hệ thống chính trị tổ chức thắng lợi chức năng, nhiệm vụ được giao; đồng thời qua “kênh” NCUT để nắm tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của người dân gửi tới Đảng, Nhà nước. Nói một cách hình tượng, NCUT là nhịp cầu nối gắn kết giữa ý Đảng và lòng dân./.
Bài 2: Những cánh chim đầu đàn
Bài 3: Bất cập trong quan niệm lựa chọn người có uy tín
Bài 4: Những vấn đề đặt ra trong việc phát huy vai trò của người có uy tín